Thứ Tư, 4 tháng 10, 2017

‘Bất an sâu sắc’: Tân đại sứ Hoa Kỳ tại VN sẽ cứng rắn nhân quyền

Dù chưa đặt chân đến Việt Nam, nhưng ứng viên cho chức vụ Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông Daniel J. Kritenbrink, đã bộc lộ rõ quan điểm về nhân quyền mà không kèm thêm từ ngữ ngoại giao hoa mỹ nào.
 
Tại phiên điều trần chuẩn thuận Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam tại Ủy Ban Ngoại Giao Thượng Viện Mỹ vào ngày 27/9/2017, Daniel J. Kritenbrink ghi nhận 18 tháng qua tại Việt Nam là một thời kỳ gia tăng bắt bớ, buộc tội và kết án nặng nề những người hoạt động. Ông cho biết xu hướng này khiến ông thấy “bất an sâu sắc”.

Ông Kritenbrink tuyên bố rằng nếu được chuẩn thuận, ông sẽ tiếp tục đề cao nhân quyền và tự do tôn giáo, nhắc nhở về nhu cầu phải tiếp tục tiến bước trong cuộc chiến chống nạn buôn người.


Ông Daniel Kritenbrink tại Hội nghị CSIS thường niên lần 6 về Biển Đông, 12/7/2016
Ảnh: VOA
Ông nói ông sẵn sàng nhấn mạnh với giới lãnh đạo ở Việt Nam rằng, tiến bộ trên những vấn đề này vẫn còn là một ưu tiên hàng đầu đối với Hoa Kỳ, và là then chốt để cho phép mối quan hệ đối tác giữa hai bên, và cho chính nước Việt Nam, đạt được khả năng tiềm ẩn đầy đủ nhất của mình.

Còn người tiền nhiệm của Daniel J. Kritenbrink là Ted Osius thì đã ứng xử với nhân quyền Việt Nam ra sao?

Trước khi nhận nhiệm vụ tại Việt Nam vào cuối năm 2014, Ted cũng có một cuộc điều trần trước Quốc hội Mỹ và có vài cuộc gặp với cộng đồng người Việt hải ngoại. Song tất cả những gì mà người ta nhớ về Ted là ông đã chỉ cam kết một cách chung chung về vấn đề nhân quyền tại Việt Nam mà không tỏ ra một bức bối nào.

Không biết vô tình hay hữu ý, chỉ chưa đầy một tháng sau khi Ted Osius nhậm chức đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam với nụ cười tươi rói, công an Việt Nam đã bắt hàng loạt nhà bất đồng chính kiến như hai blogger Hồng Lê Thọ và Nguyễn Quang Lập.

Không chỉ luôn phát ngôn đầy lạc quan “quan hệ Việt – Mỹ chưa bao giờ sáng sủa như lúc này”, Ted còn hướng đến triển vọng của mối quan hệ này bằng triết lý “không có gì là không thể!”.

Nhưng quả là “không có gì là không thể” ở chủ thể chính quyền Việt Nam. Trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng 5/2016 và dù đã mở lòng dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Hà Nội, Tổng thống Obama đã phải nhận một cú sốc chưa từng có: Có đến 6 trong tổng số 15 khách mời của Obama bị công an cấm cửa đến gặp ông.

Bảy tháng sau vụ công an Việt Nam thẳng tay chặn khách mời của Tổng thống Obama tại Hà Nội, đến lượt ngoại trưởng của Obama là ông John Kerry cũng lâm vào tình trạng tương tự.

Bầu không khí dân chủ mà giới quan chức chính phủ và ngoại giao Hoa Kỳ cảm nhận được ở đất nước họ, lại đã bị biến thái một cách lộn ngược tại quốc gia cựu thù. Những gì mà chính quyền Obama đã hy vọng sẽ làm cho giới lãnh đạo Việt Nam thay đổi về não trạng nhân quyền lại chỉ nhận được kết quả hầu như công cốc sau hai nhiệm kỳ tổng thống Mỹ.

Thế nhưng trước tình cảnh giới lãnh đạo Mỹ bị công an Việt Nam trắng trợn xúc phạm, nhà ngoại giao Ted Osius vẫn… cười.

Khá kỳ quặc là trong lúc hàng loạt kỳ đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ, dù diễn ra ở Hà Nội hay ngay tại Washington, đã trở nên hình thức một cách đáng sợ và trong thực tế chỉ nhận được lời hứa hẹn bị dư luận xem là quá giả dối từ một viên chức cấp thấp – trưởng đoàn đàm phán Việt Nam, trong lúc tần suất bắt bớ người bất đồng ở Việt Nam cứ tăng theo mỗi tháng, còn nạn sách nhiễu hành hung của “côn đồ công vụ” đã trở nên phổ cập đến nỗi có dư luận phải cho đó là một “thuộc tính sinh học” của ngành công an…, người ta vẫn chứng kiến vị đại sứ Ted Osius thung dung thưởng ngoạn phong cảnh ở Việt Nam, nhìn thấy nụ cười rất tươi của ông trên báo chí quốc doanh, còn trang facebook của ông không bao giờ tắt niềm hy vọng bằng những lời mô tả triển vọng không thể tốt đẹp hơn của quan hệ Việt – Mỹ…

Còn Kritenbrink? Liệu ông có cứng rắn hơn người tiền nhiệm Ted Osius và mang lại ít ra một hình ảnh lấy lại thể diện của nước Mỹ?

Vào tháng 5/2016, khi còn là Giám đốc phụ trách các vấn đề châu Á thuộc Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ, ông Daniel Kritenbrink được VOA dẫn lời: “Nhân quyền vẫn luôn là một thành tố quan trọng, nếu không nói là trung tâm, trong việc đưa mối quan hệ song phương Mỹ – Việt tiến về phía trước”, và “Việc xét tới yếu tố nhân quyền sẽ vẫn là một điều quan trọng trong bất kỳ quyết định bán vũ khí nào với Việt Nam hay với bất kỳ quốc gia nào”.

Tháng 5/2016 cũng là thời điểm mà nước Mỹ đã làm một cử chỉ đặc biệt kể từ năm 1995 khi Mỹ – Việt bình thường hóa quan hệ: dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.

Không biết lời cảnh báo của Daniel Kritenbrink về mua bán vũ khí có “linh” hay không, chỉ biết rằng đã hơn một năm trôi qua kể từ tháng Năm năm 2016, giới quân sự Việt Nam vẫn chưa mua được một thứ vũ khí mang hiệu quả sát thương đáng kể nào từ phía Mỹ.

Trong những tháng tới, Daniel Kritenbrink có thể là một hình ảnh khác, thậm chí khác hẳn với Ted Osius. Nếu thái độ của Tổng thống Trump là dửng dưng và có phần lạnh nhạt trong cuộc tiếp đón Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc vào tháng 5/2017, Daniel Kritenbrink cũng có thể là nhân vật đại sứ tỏ ra dứt khoát hơn trước tư thế ngả ngớn đu dây của Hà Nội giữa Washington và Bắc Kinh.
Nếu vụ Bãi Tư Chính xứng đáng là một nỗi sợ để Bộ Quốc phòng Việt Nam tìm kiếm trở lại sự hỗ trợ của hải quân và không quân Hoa Kỳ, Daniel Kritenbrink sẽ có cơ hội để không phải giữ nụ cười thường trực miễn cưỡng như cái cách của Ted Osius trước một Việt Nam vi phạm nhân quyền như cơm bữa.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét