Bất cứ quốc gia dân tộc hiện đại nào cũng tìm kiếm cho mình một
nền văn hóa, văn minh, hay một vương quốc khởi đầu qua việc kết nối với
một thực thể mờ ảo trong quá khứ. Đó là nơi huyền thoại dựng nước bắt
đầu, và cũng là nơi chứng kiến sự va chạm giữa các diễn ngôn lịch sử.
Phù Nam là một câu chuyện như thế ở Đông Nam Á.
Trong số các nền văn hóa kim khí quan trọng trên lãnh thổ Việt Nam,
từ đó phát triển các xã hội phức tạp và hình thành nhà nước: Đông Sơn/
Cổ Loa, Sa Huỳnh/Champa, Óc Eo/ Phù Nam, thì Phù Nam ít được chú ý hơn
cả. Bao trùm lên nó là huyền thoại về vương quốc được hình thành đầu
tiên ở Đông Nam Á, với cảng thị sầm uất như Óc Eo, trung tâm tôn giáo,
chính trị như Angkor Borei. Dù chỉ tồn tại khoảng từ thế kỷ I đến thế kỷ
VII CN, vương quốc này không chỉ là trung tâm của kết nối giao thương
giữa các cộng đồng khu vực với Ấn Độ, Trung Hoa mà còn đóng vai trò cực
kỳ quan trọng trong diễn ngôn chính trị-lịch sử ở thời kỳ hiện đại bởi
vì dựa vào những cứ liệu lịch sử không rõ ràng của giai đoạn này mà chủ
nghĩa dân tộc Campuchia tìm cách khẳng định sự hiện diện của dân tộc
Khmer hàng nghìn năm trước ở vùng hạ lưu Mekong.
Bài viết này lập luận rằng Phù Nam không thể là sản phẩm chiếm hữu,
độc quyền của một quốc gia dân tộc nào cả. Thực tế, nó là một thực thể
lịch sử đứng giữa các đường biên hiện đại ở hạ lưu Mekong mà một phần di
sản của nó đã trở thành bộ phận không tách rời của nước Việt Nam. Thực
tế lịch sử đó cần phải được tôn trọng. Lịch sử của Phù Nam cũng chính là
một phần của lịch sử Việt Nam.
Các huyền thoại về Phù Nam
Sau hơn nghìn năm bị “lãng quên”, người đầu tiên đưa Phù Nam trở lại
là học giả Pháp Paul Pelliot (1903: Le Fou-Nan, BEFEO). Ông sử dụng tư
liệu Trung Hoa để phác họa lịch sử vương quốc mà ông cho là bắt đầu từ
thế kỷ I CN đến khoảng thế kỷ VI-VII CN. Những nghiên cứu sau đó sẽ khảo
sát khía cạnh ngôn ngữ học, dân tộc học, khảo cổ học, văn bia… để tìm
kiếm phác thảo chi tiết về vương quốc bí ẩn này. Tiếp sau khảo cứu của
George Coedès (1944), cuộc khai quật của L.Malleret ở Óc Eo là dấu mốc
quan trọng về nhận thức đối với Phù Nam. Các cuộc khai quật khảo cổ quy
mô những thập kỷ gần đây ở Việt Nam, từ Nền Chùa (Kiên Giang), Óc Eo (An
Giang), Gò Tháp (Đồng Tháp), Đá Nổi (An Giang), Cây Gáo (Đồng Nai), Lưu
Cừ (Trà Vinh), Bình Tả- Gò Xoài (Long An), Gò Thành (Tiền Giang), Phụng
Sơn Tự-Chùa Gò (TP.HCM), đến Cát Tiên; và ở Campuchia bởi các nhà khảo
cổ học Campuchia, Mỹ, Pháp… như dự án Khảo cổ hạ lưu Mekong- LOMAP của
ĐH Hawaii và bộ Văn hóa Nghệ thuật Campuchia, đã gia tăng đáng kể hiểu
biết của chúng ta về diện mạo của Phù Nam và các tương tác vùng của nó.
Lịch sử hình thành Phù Nam được trùm phủ bởi các truyền thuyết và
huyền thoại. Huyền thoại này được ghi vào bi ký và phản ánh gần như nhau
trong các sách cổ Trung Hoa như Tấn thư, Nam Tề thư, Lương thư. Theo
đó, thực thể này lần đầu tiên được người Trung Hoa ghi chép ở thế kỷ
III, bắt đầu từ chuyến thăm của hai vị sứ thần là Khang Thái và Chu Ứng
tới vương quốc họ gọi là Phù Nam. Rằng có một người từ Ấn Độ, Malay hay
các vùng biển phía Nam nào đó tên là Hỗn Điền – Kaundinya được thần báo
mộng, nhặt được cây cung ở dưới gốc cây và chỉ hướng đi thuyền lớn ra
biển. Thuyền đến biển Phù Nam, dưới sự cai trị của một nữ hoàng là Liễu
Diệp. Liễu Diệp cho người ra chống lại, Kaundinya giương cung bắn, tên
xuyên qua mạn thuyền, Liễu Diệp sợ, xin hàng. Kaundinya cưới Liễu Diệp
và cùng trị vì. Bia Champa Mỹ Sơn 3 (năm 658) kể một câu chuyện tương
tự, nhưng nhuốm màu sắc huyền thoại hơn, thần thánh hóa ảnh hưởng của
Hindu giáo với các tước hiệu, tên các vị thần và dòng dõi các tộc cổ xưa
có liên hệ với châu thổ sông Hằng.
a: Hình thần Vishnu trên mảnh vàng, di chỉ Gò Tháp; b: Hình thần khắc trên mảnh vàng, Cát Tiên. (ảnh: Nguyễn Tiến Đông); (Lê Thị Liên, 2011).
Như vậy, dù câu chuyện về sự lập nước diễn ra như thế nào đi nữa,
diễn ngôn của nó phản ánh sự tương tác giữa những người bản địa với
những người từ bên ngoài (Ấn Độ), mang theo các yếu tố mà trong nhiều
thập kỷ, học giả phương Tây gọi là nhân tố “Ấn Độ hóa” như tôn giáo,
thiết chế chính trị, nghệ thuật, luật pháp… Còn Liễu Diệp, vị nữ hoàng
bản địa có lẽ là thủ lĩnh của một bộ lạc mà sử Trung Hoa mô tả là “còn
trần truồng” (Lương Ninh 2006). Tuy vậy, chắc chắn các nhóm bản địa đã
đóng vai trò năng động trong quá trình hình thành nên thực thể chính trị
này, chứ không đơn thuần là kết quả của quá trình tương tác ngoại lai.
Sự kết hợp này do đó mở đầu cho vương triều Phù Nam, vương quốc mà ngay
cả phổ hệ của những người đứng đầu vẫn còn là một thách thức đối với các
sử gia.
Hình thần Vishnu trên mảnh vàng, di tích Đá Nổi (ảnh Lê Xuân Diệm). (Lê Thị Liên, 2011)
Khung cảnh của Phù Nam
Lịch sử của Phù Nam có lẽ nên được kể từ 5000-7000 năm trước. Bắt đầu
với cuộc di cư của các cư dân nói tiếng Nam Đảo (Austronesians) từ đảo
Đài Loan xuống Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Họ mang theo lúa
nước, lợn, dừa, khoai lang, và kỹ nghệ làm gốm, đóng tàu… qua các hòn
đảo, duyên hải trên Biển Đông (Peter Bellwood 2006, 2007, 2014, 2017;
Solheim 2007). Cuộc du hành này là một trong những hiện tượng kỳ vĩ của
nhân loại, đưa Austronesians thành nhóm ngôn ngữ trải rộng nhất trong
lịch sử thời tiền hiện đại, băng qua 1/3 địa cầu, kết nối hàng chục
nghìn hòn đảo trải dài từ Nhật Bản đến đảo Madagascar và quần đảo Tây
Thái Bình Dương.
Bản đồ vùng phân bố của dân nói ngôn ngữ Austronesia (Nam Đảo), Peter Bellwood, 1997.
Một trong các nhóm này được cho là đã cập bến vùng duyên hải miền
Trung và Nam Việt Nam từ đảo Borneo và quần đảo Philippines (Peter
Bellwood 2017). Điều này đã được chứng thực không chỉ qua bằng chứng
ngôn ngữ học (Leonard Andaya 2008), mà còn phản ánh qua đường phân bố
của nhiều loại hiện vật khảo cổ. Một trong số đó chính là dải phân bố
của các vật phẩm ngọc bích, đặc biệt là khuyên tai hai đầu thú từ Đài
Loan tới văn hóa Sa Huỳnh, quần đảo Philippines, hạ lưu Mekong và phía
Bắc bản đảo Malay.
Vùng phân bố các vật phẩm ngọc bích từ Đài Loan trong vùng Đông Nam Á
(Hsiao-Chun Hung, Peter Bellwood, Kim Dung Nguyen, Berenice Bellina, et
al., 2007).
Huyền thoại Phù Nam mang theo những câu hỏi lớn từ
tộc người, thể chế chính trị, quan hệ lãnh thổ, phạm vi địa lý, kinh đô,
trạng thái kinh tế, và tương tác khu vực. Mỗi khía cạnh của nó đều chứa
đựng những diễn dịch lịch sử có tác động trực tiếp đến nhận thức về quá
khứ của một vùng đất rộng lớn từ phía Nam biển Hồ xuống hạ lưu Mekong
và một phần của Tây Nguyên. Điều càng có ý nghĩa là vùng đất này ngày
nay nằm trên hai quốc gia khác nhau: Việt Nam và Campuchia.
Nghiên cứu của nhóm các nhà khoa học (Hsiao-Chun Hung, Yoshiyuki
Iizuka, Peter Bellwood, Kim Dung Nguyen, Bérénice Bellina, et al) đăng
trên PNAS (2007) cũng chỉ ra phần lớn các vật phẩm này khá tương đồng
trên nhiều phương diện và được làm cùng thời (500 TCN-500 SCN). Điều đó
có nghĩa là dải đất và duyên hải kéo dài hơn 3,000 km xung quanh biển
Đông đã được kết nối trong những tương tác sôi động ở các thế kỷ tiếp
giáp CN. Đó là cơ sở của Óc Eo và Phù Nam.
a. Các vật phẩm ngọc bích: A-Gò Mả Vôi (văn hóa Sa Huỳnh) và các di
chỉ ở Phillipines và Đài Loan. (Hsiao-Chun Hung, Peter Bellwood, Kim
Dung Nguyen, Berenice Bellina, et al., 2007)
b. Khuyên tai hai đầu thú và vật phẩm đá quý và thủy tinh từ văn hóa Sa Huỳnh
(Charles Higham, Early cultures of mainland Southeast Asia, 2002)
c. Khuyên tai hai đầu thú trên thái dương một di cốt tại di chỉ Giồng Cá Vồ (Cần Giờ)
(Vũ Đức Liêm, Triển lãm khảo cổ học Việt Nam tại bảo tàng Khảo cổ học Herne, Đức).
b. Khuyên tai hai đầu thú và vật phẩm đá quý và thủy tinh từ văn hóa Sa Huỳnh
(Charles Higham, Early cultures of mainland Southeast Asia, 2002)
c. Khuyên tai hai đầu thú trên thái dương một di cốt tại di chỉ Giồng Cá Vồ (Cần Giờ)
(Vũ Đức Liêm, Triển lãm khảo cổ học Việt Nam tại bảo tàng Khảo cổ học Herne, Đức).
Khi các nhóm cư dân này bước vào thời kỳ kim khí, nhiều khu định cư
đã được xác lập nơi ngày nay là các di chỉ khảo cổ lớn như Nền Chùa
(Kiên Giang), Óc Eo (An Giang), Gò Tháp (Đồng Tháp), Đá Nổi (An Giang),
Cây Gáo (Đồng Nai), Lưu Cừ (Trà Vinh), Bình Tả- Gò Xoài (Long An), Gò
Thành (Tiền Giang), Giồng Cá Vồ, Chùa Gò (TP.HCM), kéo dài lên Cát Tiên ở
phía Bắc, khu vực Angkor Borei ở phía Đông, cách Châu Đốc khoảng 50 km.
Những trung tâm định cư và hình thái tổ chức xã hội phức tạp này sau đó
tiếp xúc với thiết chế chính trị và tư tưởng tôn giáo từ Ấn Độ trong
các thế kỷ tiếp giáp công nguyên để từng bước hình thành nên cấu trúc
chính trị Phù Nam.
Một vương quốc, một đế quốc, một mandala, một “bá quyền” hay…
Chúng ta biết gì về cấu trúc chính trị và lãnh thổ của Phù Nam? Người
Trung Hoa gọi nó là “quốc” (vương quốc, nước) đơn giản vì trong thế
giới quan của họ, “quốc” phản ánh tất cả các hình thái tập trung quyền
lực xã hội. Đương nhiên người đứng đầu “quốc” sẽ là vương (vua), cũng
như người Ấn gọi tất cả những người nắm quyền khác là Raja. Nhưng đó là
cách bên ngoài nhìn Phù Nam. Tư liệu Trung Hoa thậm chí còn cung cấp một
bảng phổ hệ không đầy đủ về các vương triều Phù Nam. Một vài tấm bia ở
vùng hạ lưu Mekong cũng nhắc đến vị hoàng tử hay nhà vua nào đó.
Ngay từ đầu các học giả đã gọi nó là một vương quốc, hay thậm chí là
“đế quốc” vì sử nhà Đường nói rằng Chân Lạp (nhà nước sơ kỳ của người
Khmer ở phía Bắc) từng lệ thuộc Phù Nam. Những người khác thì gọi nó là
nhà nước Ấn Độ hóa, nhà nước sơ kỳ đầu tiên ở Đông Nam Á, hay một “bá
quyền” (hegemony, Kenneth R. Hall) cho đến khi Oliver W. Wolters, sử gia
ở ĐH Cornell (Mỹ), đề xuất gọi những thể chế sơ kỳ trong khu vực là
mandala (1982, 1999). Mandala là khái niệm từ tiếng Sanskrit mà Wolters
dùng để chỉ tình trạng chính trị riêng biệt và thường không bền vững,
trên phạm vi địa lý xác định một cách mơ hồ, không có biên giới định rõ.
Trong hệ thống này, các trung tâm nhỏ có nhu cầu tìm kiếm sự bảo trợ và
liên minh chính trị ở khắp nơi. Vì thế, mỗi mandala gồm có tôn chủ và
các tiểu thủ lĩnh phụ thuộc; trong khi chỉ có tôn chủ mới được quyền
nhận cống nạp và thần phục thì các nhóm lệ thuộc luôn tìm cách tạo lập
một hệ thống mandala của riêng mình khi có điều kiện. Điều này xuất phát
từ đâu? Wolters giải thích đó là do điều kiện tự nhiên phân tán, chia
cắt bởi thung lũng, rừng rậm, đầm lầy, dân cư thưa thớt và các quan hệ
quyền lực lỏng lẻo.
Bản đồ phân bố các di chỉ Đá Nổi, Gò Tháp, Cát Tiên (Lê Thị Liên 2011).
Dù nhận được nhiều sự ủng hộ từ các nhà khảo cổ và sử gia về giai
đoạn sơ sử Đông Nam Á, quan điểm này vẫn còn là vấn đề tranh luận ở Việt
Nam. GS. Lương Ninh không tán đồng với quan điểm cho Phù Nam là một
mandala, ít nhất là ở giai đoạn mà ông gọi là thời kỳ “đế quốc” (thế kỷ
III – VI CN). Ông cho ở giai đoạn sơ kỳ, có thể tổ chức bộ máy Phù Nam
còn lỏng lẻo, phân tán, chưa ổn định, nhưng sau đó, chính quyền được
củng cố lại như một quy luật lịch sử (2009: 68-69).
Bản đồ kênh cổ kết nối các trung tâm của Phù Nam. Charles Higham, Early cultures of mainland Southeast Asia, 2002.
Cuối cùng, điều mà chúng ta biết được là Phù Nam tồn tại dựa trên các
trung tâm chính trị và thương mại như Angkor Borei và Óc Eo. Những
trung tâm này kiểm soát, kết nối hệ thống các khu đô thị/ định cư cổ
phân bố cả hai bên đường biên giới Việt Nam-Campuchia. Nền chính trị, ý
niệm quyền lực, nghi lễ tôn giáo của nó gắn bó chặt chẽ với sự thực hành
chính trị và tư tưởng quyền lực Ấn Độ. Họ xây dựng các kênh đào, có các
trung tâm sản xuất thủ công như đồ gốm và chế tác đồ trang sức, cũng
như một mạng lưới các trung tâm tôn giáo phức tạp. Phạm vi “lãnh thổ”
Phù Nam có thể được phác thảo thông qua mạng lưới này. Bản đồ phân bố
các di chỉ khảo cổ hạ lưu sông Mekong (Lê Thị Liên 2011) và bản đồ các
con kênh cổ kết nối các di chỉ quan trọng của Phù Nam dưới đây (Charles
Higham 2002) gợi ý về cấu trúc lãnh thổ và tương tác khu vực của thể chế
này.
Phù Nam trong mối giao thương giữa Ấn Độ – Đông Nam Á-Trung Hoa
Bản đồ thương mại Á châu, khoảng năm 600 (James C.M. Khoo. Art & Archaeology of Fu Nan, 2006)
Để hiểu được điều này, chúng ta cần định vị Phù Nam trong khung cảnh
rộng lớn hơn của lịch sử toàn cầu, giai đoạn mà nhiều sử gia gọi là thời
kỳ “toàn cầu hóa” đầu tiên. Con đường tơ lụa kết nối Trung Hoa với thế
giới Địa Trung Hải, nơi mà Viện Nguyên Lão Rome nhiều lần cấm các thành
viên mặc lụa bởi vì sản phầm này làm chảy máu vàng và bạc ra khỏi đế
chế. Xuôi về phía nam hàng nghìn km, có một tuyến giao thương không kém
phần quan trọng nhưng ít được biết đến hơn. Nhà khảo cổ học người Anh,
Ian Glover gọi đó là Con đường tơ lụa phương Nam (2000), hình thành do
sự gia tăng thương mại của Rome với Ấn Độ, Đông Nam Á, và Trung Hoa.
Cuốn sách bàn về chính trị cổ xưa của Ấn Độ là Arthashastra (viết bởi
Kautilya, c. 350-275 TCN) đã đề cập đến việc người Ấn đi về phía Đông để
tìm vàng. Điểm đến của họ là hòn đảo có tên Suvarnadvipa (Đảo Vàng), mà
nhiều khả năng là đảo Java. Các văn bản Phật giáo đề cập đến việc nhà
vua Asoka cũng phái các tăng đoàn đến vùng đất được gọi là Suvarnabhumi
(Đất Vàng), nơi mà cả Malaysia, Thailand và Myanmar đều cho là thuộc về
mình. Bản thân truyền thuyết về sự ra đời của Phù Nam cũng đã phản ánh
sự dịch chuyển của những người Ấn Độ này.
Tượng thần Vishnu, niên đại thế kỷ VI, cao 1.6 m, khai quật tại Đồng Tháp năm 1998 (Võ Sĩ Khải 2000)
Tại sao Phù Nam lại quan trọng ở giai đoạn đầu của kết nối trên Biển
Đông? Vì nó là trung tâm của một mạng lưới các giao thương ven bờ. Các
sử gia về lịch sử thương mại và kỹ thuật hàng hải trong khu vực như Paul
Wheatley, Oliver W. Wolters, Kenneth R. Hall, Micheal Jacq-Hergoualc’h,
và Pierre-Yves Manguin đều gợi ý rằng cho đến trước thế kỷ VI-VII, giao
thương hàng hải giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương được trung chuyển
chủ yếu qua eo đất Kra, miền Nam Thailand ngày nay. Hạn chế kỹ thuật
hàng hải, tri thức địa lý cùng với nỗi lo cướp biển và các cơn bão đã
khiến thủy thủ đoàn không dám mạo hiểm đi qua eo Mallaca. Chuyến đi của
nhà sư Pháp Hiển ở thế kỷ thứ V là một ví dụ. Sau khi đi đường bộ đến Ấn
Độ, ông quyết định trở về Trung Quốc trên một con tàu thương mại Ba Tư.
Chuyến hành trình được Pháp Hiển ghi lại trong cuốn Phật Quốc Ký của
mình, đã trở thành một thảm họa thực sự. Con tàu của ông bị bão đánh dạt
hơn 1000 km về bờ biển phía Bắc Trung Quốc, thay vì địa điểm hướng đến
là Quảng Châu (Tansen Sen 2003). Hơn nữa, việc chuyển hàng qua dải đất
Kra cũng sẽ giúp giảm được hơn 1200 km đi lại. Phù Nam vì thế trở thành
một đầu mối thương mại trong vùng vịnh Thailand, cùng với vương quốc
người Môn là Dvaravati trên lãnh thổ trung tâm Thailand ngày nay.
a: Đồng tiền Roma thời hoàng đế Antonius Pius tìm thấy ở Óc Eo
(Charles Higham, Early cultures of mainland Southeast Asia, 2002).
b: Đồng tiền Roma thời hoàng đế Victorius (268-70), được đúc ở Cologne (Đức), được phát hiện tại U-Thong (Thailand). (Ian Glover 1989).
b: Đồng tiền Roma thời hoàng đế Victorius (268-70), được đúc ở Cologne (Đức), được phát hiện tại U-Thong (Thailand). (Ian Glover 1989).
Sự thịnh vượng của Phù Nam được phản ánh qua số lượng phong phú các
hiện vật khảo cổ được tìm thấy mà phần lớn trong số chúng là những vật
phẩm thương mại giá trị. Rất nhiều trong số chúng có nguồn gốc ngoại
lai từ Rome, Ấn Độ, Trung Hoa và các khu vực thuộc Đông Nam Á: từ các
đồng tiền, chuỗi hạt đá quý, thủy tinh, đồ kim loại, đồ trang sức vàng,
ngọc, các vật phẩm tôn giáo như lá vàng khắc chữ Sanskrit, hay khối
lượng phong phú hình các linga, tượng thờ…
Các đồ trang sức bằng đá quý và thủy tinh cũng gợi ý về các trung tâm
chế tác ở vùng châu thổ Mekong và sự gắn bó chặt chẽ với nhiều vùng sản
xuất khác trên đất Ấn Độ. Số lượng đồ gốm rất đa dạng tại các di tích
này cho thấy sự phát triển của thủ công nghiệp, trong khi các con kênh
cổ có thể được dùng cho cả mục đích giao thương và sản xuất nông nghiệp.
a: Tiền Phù Nam và tiền Pegu (Lương Ninh 2009).
b: Tiền bạc tìm thấy tại Ba Thê, giống như những đồng tiền mà L.Malleret khai quật tại Óc Eo. (Bảo tàng An Giang). (John N. Miksic 2000).
Việc tìm thấy nhiều đồng tiền đúc bằng bạc cho thấy sự phát triển của
hoạt động trao đổi. Sự tương đồng của những đồng tiền này với các đồng
tiền tìm thấy trên bán đảo Malay, Thailand, và Myanmar cho thấy không
gian tương tác khu vực rộng lớn của các cư dân Phù Nam. Chính sức hấp
dẫn đó mà ngay từ thế kỷ III, người Trung Hoa đã phái sứ đoàn đến vùng
đất này.
Mảnh vàng lá khắc chữ và đồ trang sức bằng vàng khai quật năm 1987 tại Long An (Võ Sĩ Khải 2000).
Trong khi đó số lượng phong phú các tượng Phật và Hindu, nền tháp và
di tích các công trình tôn giáo cũng như vật phẩm tôn giáo cho thấy đời
sống tinh thần phức tạp và đa dạng của các nhóm cư dân Phù Nam. Nhiều
trung tâm tôn giáo được ghi nhận trên vùng hạ lưu Mekong, cùng với đó là
sự phát triển của nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc (xem thêm Lê Thị
Liên 2006, Nghệ thuật Phật giáo và Hin-du giáo ở ĐBSCL trước thế kỷ X).
Mảnh vỡ tượng đất nung được cho là các vị thần của Rome cùng với tượng phật và một linga nhỏ (Võ Sĩ Khải 2000).
Phù Nam và Chân Lạp
Chân Lạp là tên người Trung Hoa ghi chép về vương quốc sơ kỳ của
người Khmer. Theo các văn bia, vương quốc này cũng là một thực thể chính
trị chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, thành lập cuối thế kỷ VI ở vùng
cao nguyên phía Nam Lào (Vat Phou, Champasak). Sử nhà Đường có chép việc
Chân Lạp vốn là thuộc quốc của Phù Nam, đến thế kỷ thứ VII thì lớn mạnh
và chinh phục Phù Nam. Sau đó Chân Lạp bị chia rẽ, phân làm Thủy Chân
Lạp (ở phía Nam) và Lục Chân Lạp (ở phía Bắc). Campuchia ngày nay nói
rằng vì thế mà họ là người kế thừa của Phù Nam!
Tấm bản đồ dưới đây phản ánh thành quả nghiên cứu hơn một thập kỷ của
dự án khảo cổ Hạ lưu Mekong-LOMAP trong việc xác định không gian địa lý
của hai thực thể: Phù Nam và Chân Lạp.
Bản đồ không gian Phù Nam và Chân Lạp (Miriam Stark 2006)
Bản đồ không gian Phù Nam và Chân Lạp (Miriam Stark 2006)
Phù Nam là Phù Nam và Chân Lạp là Chân Lạp. Sử liệu, khảo cổ học,
ngôn ngữ học, văn bia, và khảo sát tộc người cho thấy không hề có sự
nhập nhằng nào giữa hai thể chế này, cũng như không thể khẳng định Chân
Lạp là người kế thừa (không nói là kế thừa toàn bộ) di sản của Phù Nam.
Trước hết, Chân Lạp được tạo dựng bởi người Khmer. Người Khmer nói
tiếng Nam Á (Austroasiatic). Địa bàn phân bố của những người tạo dựng
nên Chân Lạp trải dài từ khu vực cao nguyên Khorat, dọc lưu vực sông
Chi, sông Mun, theo dãy Dangrek về phía đông đến vùng cao nguyên
Champassak của Lào. Chân Lạp được thành lập sau Phù Nam và ban đầu còn
phải nhận sự lệ thuộc.
Thứ hai là chính Chân Lạp đã tấn công phá hủy Phù Nam, sau đó rút về
phía Bắc của Biển Hồ. Lịch sử cư trú của người Khmer ở hạ lưu Mekong sau
thời kỳ Phù Nam là hầu như không được đề cập đến. Nhà sử học Nhật Bản
Yumio Sakurai nói rằng nhiều vùng đất như Đồng Tháp Mười đã bị bỏ hoang
cả nghìn năm sau sự sụp đổ của Phù Nam. Sứ thần nhà Nguyên Chu Đạt Quan
đến Angkor vào thế kỷ XIII, ghi chép về vùng đất xung quanh hai bờ sông
hầu như bỏ trống, chỉ có trâu hoang và rừng rậm. Nhà khảo cổ người New
Zealand, Charles Higham đã lập tấm bản đồ trong đó đánh dấu các địa điểm
có văn bia Khmer từ thế kỷ IX đến XIII, cho thấy họ hầu như không có sự
hiện diện nào từ khu vực phía Nam Phnom Penh (2002).
Bản đồ phân bố các văn bia Khmer từ triều đại Mahidharpura (c. 802–1219) (Charles Higham 2002)
Cuối cùng, Phù Nam đang dần bước ra khỏi huyền thoại. Càng tách lịch
sử ra khỏi huyền thoại thì chủ nghĩa dân tộc càng ít chỗ “ẩn nấp”, đó là
lí do chúng ta cần đưa vương quốc này ra ánh sáng khoa học. Điều đó
không chỉ giúp quá khứ được hiểu đúng mà quan trọng hơn thực tế lịch sử
và các di sản của nó được tôn trọng, trong đó có vấn đề lãnh thổ, biên
giới.
Lịch sử Phù Nam và vùng hạ lưu Mekong chắc chắn sẽ là những chủ đề
được quan tâm trong tương lai. Hiện tại, các bảo tàng cấp tỉnh ở An
Giang, Đồng Tháp, Long An, thành phố Hồ Chí Minh… có rất nhiều các hiện
vật được khai quật, đang chờ đợi các nhà nghiên cứu. Chúng sẽ góp phần
làm sáng tỏ bức chân dung ẩn giấu của Phù Nam. Thực tế, huyền thoại về
Phù Nam là một ẩn dụ cho cách tiếp cận lịch sử của người Việt hiện đại,
rằng lịch sử Việt Nam dường như vẫn chủ yếu được viết và nhìn từ châu
thổ sông Hồng. Đã đến lúc chúng ta cần những cách thức tiếp cận lịch sử
đa dạng, và mở rộng không gian của lịch sử dân tộc Việt Nam. Bởi vì, dù
phía sau Phù Nam là huyền thoại gì đi nữa, nó đã trở thành một phần của
Việt Nam, cũng như lịch sử Phù Nam đã là một bộ phận của lịch sử Việt
Nam.
*
Vũ Đức Liêm là giảng viên khoa Lịch sử, ĐH Sư phạm Hà Nội, nghiên
cứu Lịch sử tại ĐH Hamburg. Hướng nghiên cứu chính: Lịch sử Việt Nam và
Đông Nam Á cận hiện đại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét