Bản tính thứ nhì được hình thành như thế nào? Có nhiều cách thức đối với từng thành phần và đối tượng khác nhau.
- Những người đã từng được chứng kiến quá trình hoạt động của đảng cộng sản Việt Nam thời kỳ đầu, được chứng kiến việc thanh toán những thành phần mà đảng nói là việt gian, phản động. Những người chứng kiến cuộc cải cách ruộng đất long trời lở đất, việc con đấu tố cha mẹ, vợ đấu tố chồng, trò đấu tố thầy… họ chứng kiến những cái chết tức tưởi, vô cùng vô lý giai đoạn đầu xây dựng chế độ. Sau đó họ chứng kiến những cái chết, những sự đày đọa khủng khiếp chỉ vì không hợp tác, không nghe theo và không đồng tình với cộng sản… tất cả những điều đó tạo ra một nỗi sợ hãi và dần hình thành trong con người họ một bản tính tuân phục, đồng tình và thậm chí bảo vệ chế độ. Đây là quá trình hình thành tự nhiên trong tâm trí để cá nhân tự bảo vệ mình trước hoàn cảnh thực tế vô cùng nghiệt ngã, tàn bạo. Sự ám ảnh khi chứng kiến và trải qua giai đoạn lịch sử tồi tệ cũng đồng thời tạo nên bản tính thứ hai của phần lớn những người thuộc thế hệ từ 70 tuổi trở lên hiện nay.
- Thế hệ dưới 70 tuổi, hoặc sinh ra từ năm 1950 trở về tuy không còn phải chứng kiến những cái chết oan nghiệt, tàn bạo, vô lý nhưng sự đày đọa khi những người phản kháng hoặc không đi theo, không đồng tình với đường lối chính sách của đảng và nhà nước vẫn diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Đồng thời, với sự bưng bít thông tin và sự tuyên truyền, nhồi sọ, họ đã không thể phân biệt được đúng, sai. Khi đã không phân biệt được đúng sai, lại sống trong môi trường bị phân biệt đối xử, phân chia giai cấp, thành phần cũng dẫn tới thế giới quan a dua, toa rập và lệch lạc. Như vậy, việc hình thành bản tính thứ nhì đối với thế hệ này là để tránh sự đày đọa và phân biệt đối xử, và đến giai đoạn đổi mới, mở cửa là vì quyền lợi, lợi ích.
- Đối với thế hệ trẻ hơn, sinh từ năm 1975 trở lại đây, khi họ lớn lên, xã hội đã sang một thời kỳ mới. Sự tàn bạo, đày đọa con người do khác biệt chính kiến, quan điểm không còn khắc nghiệt nữa, nhận thức được mở rộng hơn nhưng cũng hỗn loạn hơn. Đây là thế hệ khổ sở về mặt nhận thức bởi những lý do sau. Thứ nhất, họ không được trang bị kiến thức và phương pháp nhận thức xã hội đúng đắn do sự thất bại liên miên của giáo dục và cải cách giáo dục. Thứ hai, toàn bộ hệ thống giá trị, thế giới quan, nhân sinh quan mà họ được đào tạo, giáo dục đã thất bại hoàn toàn, đã bị nhân loại bác bỏ nhưng họ vẫn phải học, phải bị nhồi nhét. Trong khi thực tế cuộc sống cũng đi ngược lại toàn bộ những điều được dạy trong sách vở. Đối với thế hệ sinh sau 1975, họ không hình thành bản tính thứ nhì dựa trên những nỗi sợ hãi. Nhưng do những giá trị xã hội đảo lộn, hỗn loạn mà việc hình thành bản tính thứ nhất bị khiếm khuyết. Xã hội không có những chuẩn mực để định hình những giá trị cần thiết của bản tính thứ nhất. Chính vì vậy,việc hình thành lý tưởng của thế hệ này khó hơn các thế hệ trước, phần lớn họ nhắm tới các lợi ích ngắn hạn, trước mắt có thể xấu hoặc tốt. Trong bối cảnh độc tài toàn trị của đất nước, thì lợi ích luôn song hành với sự tung hô, đồng tình và bảo vệ chế độ. Như vậy, dù không có bản tính thứ nhì, không bị chi phối bởi bản tính thứ nhì nhưng do xu hướng nhắm tới các mục tiêu trước mắt mà thế hệ này cũng khó tiếp cận với chân lý và hiện thực khách quan.
II/ Nâng cao nhận thức
Khi chúng ta nói tới việc nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng luôn có hai yếu tố có tính chất quyết định, đó là nhận thức và thái độ. Xét đến cùng thì thái độ cũng là nhận thức nhưng ở tầng mức cao nhất, tổng quát nhất và toàn diện nhất. Lấy một ví dụ, có người chưa hiểu nhiều, chưa hiểu hết về chế độ cộng sản, vẫn đang trong quá trình tìm hiểu, nhưng họ đã xác định, chế độ cộng sản là chế độ tàn bạo, vô nhân gây ra nhiều tội ác đã bị nhân loại phỉ nhổ và loại bỏ… thì người đó có thái độ đúng, cũng chính là có nhận thức tổng quát đúng. Với thái độ đó, không khó để người này tiếp cận các tư liệu, tài liệu, sách vở để hiểu được những vấn đề phức tạp của chế độ cộng sản. Nếu thái độ không đúng, dù có nhiều dẫn chứng và bằng chứng, người ta vẫn có thể tìm ra những lý do để biện minh, bào chữa cho sự sai trái và tội ác. Nếu thái độ đúng nhưng không triệt để, thì họ sẽ bị sa vào những mâu thuẫn không thể lý giải nổi. Ví dụ, nhiều người cho rằng chế độ cộng sản ở Việt Nam, hay chủ trương đường lối chính sách của đảng cộng sản Việt Nam đến năm 1975 là đúng, hoăc đến khi đổi mới là đúng. Sau năm 1975 , hoặc sau đổi mới đảng cộng sản mới tha hóa, biến chất… Nhưng khi hỏi rằng, nếu đến năm 1975, hoặc đến đổi mới là đúng thì tại sao lại có cải cách ruộng đất, tại sao lại có đánh tư sản miền bắc, đánh tư sản miền nam và nhiều tội ác khác của đảng cộng sản?
Tất nhiên, nếu một người tìm hiểu, nghiên cứu với một thái độ khoa học, tức là tôn trọng lịch sử và sự thật khách quan, nhận thức sẽ đưa tới thái độ và những kết luận tổng quát chính xác và hoàn chỉnh. Để vượt qua được tất cả những khúc mắc, những lực cản tâm lý, ảnh hưởng của bản tính thứ nhì và những toan tính trước mắt, chúng ta cần có những nhận thức đúng đắn và triệt để về chế độ cộng sản nói chung và chế độ cộng sản Việt Nam nói riêng…
(còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét