Thứ Năm, 30 tháng 3, 2017

Không thể có phát triển nhờ độc tài



 Ông Vladimir Zhirinovsky, thành viên quốc hội Nga, tổ chức một cuộc họp báo tại Hội đồng châu Âu hôm 25/1/2006, tranh luận về một báo cáo chống lại các tội ác do chế độ độc tài cộng sản gây ra. AFP photo


Một ngộ nhận của giới chuyên gia khi họ tin rằng một chế độ độc tài mà anh minh sáng suốt vẫn có thể đem lại thịnh vượng cho người dân.

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, qua nhiều chương trình liền, ông thường nhắc tới một nhu cầu là dân quyền và nhân vị trong công cuộc phát triển kinh tế và chế độ độc tài sẽ không thể đem lại thịnh vượng cho người dân. Ý kiến ấy có vẻ như đi ngược với luận cứ của nhiều chuyên gia kinh tế hay thành tích chói lọi của Trung Quốc với một chế độ thiếu dân chủ. Vì vậy, kỳ này xin đề nghị ông giải thích tiếp về nghịch lý đó.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng trong thế kỷ 20 đã có cuộc tranh luận về giá trị của hai mô hình kinh tế đối nghịch. Một là tập trung kế hoạch của các nước cộng sản hai là tự do phát triển theo quy luật thị trường của các nước dân chủ. Kết cuộc thì các chế độ cộng sản độc tài trôi vào khủng hoảng hoặc tan rã từ năm 1991 nên chẳng còn được nhà lý luận nào bênh vực nữa. Nhưng một số người từng đặt niềm tin vào chế độ cộng sản lại tìm ra một lý lẽ khác, từ cộng sản chạy qua xã hội chủ nghĩa. Rằng thế giới có các nước chuyên chế độc tài nhưng được lãnh đạo anh minh sáng suốt để quyết định về việc sung dụng hay phân phối tài nguyên quốc gia nên đạt thành quả phát triển cao.

Hiện tượng được viện dẫn là nhiều nước tân hưng Đông Á chưa có dân chủ thì đã phát triển mạnh. Lớn thì có trường hợp Trung Quốc, nhỏ thì là trường hợp Singapore, Hong Kong, ở giữa thì có Đài Loan, Nam Hàn. Vì nhiều chuyên gia kinh tế quốc tế của Tây phương cũng đồng tình với lập luận ấy cho nên chúng ta cần tìm hiểu sâu xa hơn về sự sai lầm của họ. Kỳ này, tôi xin được nói về chuyện đó, nhất là về trách nhiệm của giới chuyên gia và sẽ phải lần lượt đi từ đầu qua từng bước.

Nguyên Lam: Nguyên Lam xin được mời ông trình bày sự thể này.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trước hết, thế giới có nhiều nước nghèo, chậm phát triển hoặc chưa phát triển mà nói cho phũ phàng thì còn chậm tiến. Nhưng các định chế quốc tế vẫn lịch sự gọi đó là các nền kinh tế “đang lên”. Trong lãnh vực kinh tế, có loại chuyên gia quan tâm đến việc phát triển các nước nghèo, ta gọi họ là “chuyên gia phát triển”, chứ không vơ đũa cả nắm mà phê phán mọi chuyên gia. Chuyện thứ ba, với giới chuyên gia phát triển thì nếu một nền kinh tế đạt mức tăng trưởng 6% một năm, như Việt Nam hiện nay, thì đấy là bước đầu của phát triển vì nếu giữ được tốc độ ấy trong 12 năm liền là có thể nâng lợi tức gấp đôi.

Lấy tiêu chuẩn 6% như hòn đá thử vàng, giới chuyên gia phát triển mới đo lường công cuộc phát triển của các nước nghèo và suy ngược lên lý do, là các nước đã có chính sách kinh tế quốc gia thế nào để giữ được đà tăng trưởng trong lâu dài? Trường hợp của bốn nền kinh tế Singapore, Hong Kong, Đài Loan và Nam Hàn được họ coi là mẫu mực. Sau đó họ viện dẫn thêm trường hợp của Trung Quốc rồi của Việt Nam. Yếu tố cần chú ý ở đây là khái niệm “chính sách kinh tế quốc gia”, với hàm ý rằng đà tăng trưởng là do các chính quyền hay nhà nước hoạch định và thi hành từ trên xuống, nghĩa là nhà nước mới giữ vai trò trọng yếu.

Quy luật về kinh tế

Nguyên Lam: Thưa ông, khi cho rằng nhà nước mới giữ vai trò trọng yếu qua chính sách kinh tế quốc gia từ trên ban xuống thì phải chăng các chuyên gia về phát triển vẫn đánh giá sai hai yếu tố kia là thị trường và người dân?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng đấy mới là vấn đề! Đầu tiên, cái tiêu chuẩn 6% ấy thật ra vô giá trị vì nhiều nước nghèo khác cũng từng có chục năm tăng trưởng như vậy, sau đó là suy sụp. Thí dụ như Togo vào quãng 1960, Paraguay vào quãng 1970 hay Oman quãng 1980, rồi Cộng hòa Dominican vào quãng 1990, nước Chad vào quãng 2000 hay Rwanda vào quãng 2010. Ngày nay chẳng còn ai nhắc đến sáu nước bại liệt đó nữa. Lý do ở đây là xứ nào cũng có thể được chục năm tăng trưởng mà không bền vững, và tăng trưởng chưa thể là phát triển.

Sai lầm thứ hai của các chuyên gia về phát triển là cho rằng yếu tố dẫn tới tăng trưởng lâu dài thuộc về chính sách vĩ mô do nhà nước đề ra. Thí dụ như bội chi ngân sách, chế độ kiểm soát giá cả và lãi suất hay mậu dịch, v.v… Lý do sai lầm là vì giới chuyên gia được mời làm tư vấn cho nhà nước về chính sách và tưởng rằng hoặc làm người ta tưởng là nhờ sự cố vấn của họ mà kinh tế đạt mức tăng trưởng trong lâu dài. Sự thật thì nhiều đà tăng trưởng ấy có thể khựng và đảo ngược như các trường hợp nói rên. Nguyên nhân tăng trưởng hay suy thoái có khi chẳng thuộc chính sách kinh tế nhà nước mà vì nhiều yếu tố có tính chất giai đoạn, như sự thăng trầm của giá nguyên nhiên vật liệu, của đầu tư hay viện trợ từ nước ngoài, hoặc thậm chí thiên tai lẫn cả cách đếm sai đà tăng trưởng. Vì thế, Singapore hay Hong Kong cũng có 10 năm ngoạn mục từ năm 2000 tới 2010 nhưng sau đó thì giảm.

Có một quy luật thực tế ở đây là khi một nền kinh tế đạt mức tăng trưởng vượt bậc, hơn hẳn trung bình của các quốc gia khác, thì sau mươi năm là hụt hơi. Đầu năm 1997, các chuyên gia quốc tế vừa ngợi ca phép lạ kinh tế Đông Á thì Tháng Bảy năm đó lại nổ ra vụ khủng hoảng kinh tế với hậu quả là Đông Á bị suy thoái trong bốn năm liền tới độ Nam Hàn còn phải xin Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế cấp cứu. Sai lầm căn bản nhất của giới chuyên gia là nhìn vào chuyện trừu tượng mà quên hẳn số phận của dân nghèo khi sẵn sàng cộng tác với các chế độ chuyên chính độc tài và lại còn nói rằng nhờ sức mạnh của nhà nước thì quốc gia mới dễ phát triển.

Nguyên Lam: Chúng ta bước qua một vấn đề khác, là thưa ông, liệu các chế độ độc tài có ưu thế cao hơn nền dân chủ hay không khi họ đề ra chính sách kinh tế cho toàn dân?
                                    
Khách sạn và công viên giải trí tại Resort World Sentosa, Singapore chụp hôm 10/3/2017. AFP photo

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Đấy là huyền thoại nguy hại nhất. Huyền thoại là cái gì đó không thật mà cứ được loan truyền, và trong lĩnh vực kinh tế, các chuyên gia về phát triển ưa loan truyền lý luận tai hại đó. Tôi xin lấy một thí dụ tiêu biểu là công trình nghiên cứu hỗn hợp của Ngân hàng Thế giới và nhà cầm quyền Trung Quốc được công bố năm 2013 mà tiết mục chuyên đề của chúng ta cũng có nhắc tới. Đấy là Phúc trình có tên là “Trung Quốc năm 2030: Xây dựng một Xã hội Hiện đại, Hài hòa và Sáng tạo”.

Sự thật là trong khi Bắc Kinh đàn áp người dân, kiểm soát báo chí thì họ quyết định về các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới và kinh tế gia của họ làm công tác tuyên truyền này. Khi thấy Ngân hàng Thế giới tung ra báo cáo ấy thì người ta tin rằng định chế tài trợ phát triển này xác nhận tương lai sáng láng của Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của một chế độ sáng suốt có đầy ý chí.

Trong khi đó, người ta bỏ qua số phận của dân nghèo trong một quốc gia đầy ô nhiễm và tham nhũng. Đây là một hiện tượng lầm lạc đã có từ lâu và rất khó sửa. Nó đã có từ thời Đặng Tiểu Bình nay tiếp tục với Tập Cận Bình. Sự thật thì kinh tế có thể tăng trưởng nhờ sức dân mặc dù người dân lại là nạn nhân của chế độ độc tài, và ngược lại, chính sách kinh tế của nhà nước độc tài mới dễ gây ra khủng hoảng.

Khó sửa sai

Nguyên Lam: Nhưng thưa ông, vì sao người ta lại khó cải sửa sự lầm lạc như ông vừa nói?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thứ nhất là nhiều người cho rằng chế độ độc tài có khả năng tập trung cao hơn chế độ dân chủ để phát triển quốc gia dù khái niệm phát triển đó chỉ là tăng trưởng mà thôi. Sự thật ở đây là một thống kê u ám. Các lãnh tụ độc tài thường tàn phá quốc gia mà không có thuốc chữa, còn trường hợp tương đối tốt đẹp như lãnh tụ Phác Chính Hy tại Nam Hàn, Lý Quang Diệu của Singapore hay Augusto Pinochet của xứ Chile chỉ là ngoại lệ, là rất hãn hữu. Thứ hai, nhiều người công nhận rằng dù các lãnh tụ độc tài tệ hại nhất có thể tàn phá quốc gia hơn một lãnh tụ dân chủ bất tài nhất thì các lãnh tụ độc tài sáng suốt vẫn có nhiều thành tựu hơn các lãnh tụ dân chủ sáng suốt nhất. Sai lầm thứ hai này mới khó cải sửa vì nó khá mơ hồ.

Thí dụ điển hình gần gũi với Việt Nam là trường hợp Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh là người khởi xướng đổi mới, hay Thủ tướng Võ Văn Kiệt là người tiến hành sau đó, hoặc gần đây hơn nữa là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nhiều tai họa kinh tế phát sinh từ thời lãnh đạo của các nhân vật ấy mà chuyên gia quốc tế không biết, hoặc có biết một cách mù mờ thì tránh nói tới. Sự thật ở đây là ngoài vài trường hợp ngoại lệ, không phải là chế độ độc tài phát triển quốc gia nhanh hơn chế độ dân chủ. Ách độc tài thu hẹp khả năng cải sửa của thị trường và người dân cho nên dân nghèo mới là nạn nhân ở dưới đáy. Hãy hỏi bà con ở miền Trung ngày nay tại Vệt Nam thì biết thế nào là nạn nhân ở dưới đáy vì nhiều quyết định xa xưa của chế độ độc tài.

Trong khi đó, sự thật lịch sử từ bảy tám chục năm qua đều cho thấy là các chế độ dân chủ đã phát triển bền vững hơn. Quan trọng nhất, chế độ dân chủ có khả năng thẩm xét thực tài của giới chuyên gia trong khi chế độ độc tài lại dùng chuyên gia quốc tế làm bình phong cho các chính sách tai hại của họ. Việc Ngân hàng Thế giới hay Công ty tài trợ IFC vừa bị phê phán cho thấy là chính khả năng các chuyên gia quốc tế về phát triển đang bị thẩm xét lại.

Nguyên Lam: Vì thời lượng có hạn cho một đề tài lý thú, Nguyên Lam xin yêu cầu ông đưa ra một kết luận, dù đó có thể chỉ là một kết luận tạm cho một vấn đề quá sâu xa phức tạp.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Khi một chế độ độc tài cho người dân có thêm quyền tự do về kinh tế thì đấy chỉ là một cách dung hợp với yêu cầu của thị trường mà lại được giới chuyên gia phát triển đánh giá là đổi mới hay cải cách. Trong khi đó, chế độ độc tài lại không cho người dân có thêm quyền tự do về chính trị, là trường hợp phổ biến của nhiều nước nghèo, kể cả Trung Quốc hay Việt Nam, thì giới chuyên gia tránh nhắc tới, hoặc còn biện hộ rằng nhờ đó mà có ổn định. Ta rất nên thận trọng với loại chuyên gia ấy khi họ ăn cây nào phải rào cây nấy.

Sự thật quan trọng nhất là công cuộc phát triển nước nghèo phải đi từ dưới lên, từ dân nghèo. Quyền tự do, nhân phẩm hay nhân vị của họ phải là điểm khởi đầu và chính sách phát triển phải ưu tiên nhắm vào họ. Cái chân lý hay “sợi chỉ đỏ xuyên suốt” theo ngôn từ cộng sản, phải xuất phát từ một điều đã được các nước Tây phương xiển dương từ hơn hai thế kỷ trước, rằng “con người ta sinh ra là phải có quyền tự do và được bình đẳng”. Lớp người nghèo khổ nhất không có cơ hội bình đẳng và thiếu tự do chọn lựa.

Chính sách phát triển phải khởi đi từ thành phần bần cùng đó, chứ không từ các giai tầng trên và nhất là không từ lãnh đạo ở chóp bu đã lấy tài nguyên quốc gia nuôi các chuyên gia có nhiệm vụ bảo vệ chính nghĩa đáng ngờ của chế độ. Bản thân tôi thường đọc phúc trình của các chuyên gia này với sự nghi ngờ đó!

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do và Nguyên Lam xin cảm tạ ông về cuộc phỏng vấn kỳ này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét