Có thể nói nhạc vàng tại miền Nam trước năm 1975 là một
trong những mốc son của âm nhạc Việt Nam, nó phản ánh cái tâm thức của người Việt
được hưởng những nét đặc trưng của xã hội miền Nam khi đó, cũng như được trầm
mình trong bối cảnh của chế độ chính trị - xã hội lúc bấy giờ, khá tự do, cởi mở.
Những ca khúc nhạc vàng vào thời kỳ này đã biểu trưng những
tâm tình cá nhân, những mẫu chuyện rất riêng tư, phù hợp với thị hiếu của người
dân lúc bấy giờ, nhất là những người dân thị thành. Chủ đề của nhạc vàng cũng rất
đa dạng, có những ca khúc viết về vẻ đẹp đầy sức sống, đầy thơ mộng của người nữ
sinh trong bộ áo dài màu tím (có thể thấy sắc tím xuất hiện rất nhiều trong các
ca khúc lúc bấy giờ) hay là về kỷ niệm tuổi học trò với hoa phượng trong sân
trường, đến ngày chia tay nhau, xa trường xa lớp nhưng mỗi đứa đều có mối liên
tình với nhau qua lưu bút ngày xanh ( có lẽ nhạc sĩ Thanh Sơn là nổi tiếng hơn
cả với chủ đề này).
Như đã nêu, nhạc vàng phản ánh những cái rất riêng tư, rất
cá nhân, thể hiện những con người có tính chất cá nhân và mối quan hệ giữa họ mặc
dù những con người ấy phải bị đẩy đưa vào bối cảnh chung là sự ác liệt của cuộc
chiến tranh lúc bấy giờ, tức là con người vẫn có tính chất không thể tách rời với
lịch sử, với cộng đồng những người khác nhưng vẫn không quá hòa tan vào cộng đồng
mà tính cộng đồng ở đây đã được giảm nhẹ đi nhiều qua hình ảnh tình bạn bè, bằng
hữu, phu phụ, trai gái lứa đôi… và có lẽ trong chừng mực này thì tính cộng đồng
đã trở nên chỉ còn là những câu chuyện của hai người, của anh và tôi, của anh
và em…
Vì thế cho nên, tuy hình ảnh người lính miền Nam Việt Nam là
phải gắn liền với quân ngũ, phải ở trong cộng đồng lính tráng nhưng thông qua
các ca khúc nhạc vàng thì người lính được khắc họa một cách rất riêng biệt,
không thể lẫn vào đâu được.Người lính chiến trong nhạc vàng cũng phải là hòa nhập
với thời cuộc chung nhưng lại được gợi lên trong cái tình bằng hữu, câu chuyện
giữa hai người bạn thân tình với nhau, đầy kỷ niệm với nhau nhưng phải ly biệt
vĩnh viễn vì một người đã tử trận nơi chiến trường, đặc biệt là ở đây cái chết
đã được nhắc đến và cái chết của người lính dẫn đến sự chia lìa giữa anh ta với
những gì thân thuộc còn lại đã luôn được nhắc đến như những gì rất riêng tư, ta
có thể thấy rõ điều này qua những ca khúc nhạc lính như “Hai Mùa Mưa” của nhạc
sĩ Lê Minh Bằng với những lời nhạc như sau: “Mùa mưa lần trước anh về đây ghé
thăm tôi/ Tình xưa bạn cũ gặp nhau đêm ấy mưa rơi/Tách cà phê ấm môi/Mình ngồi
ôn lại những phút vui trôi qua mất rồi/Này cây phượng vĩ bên đường che nắng ban
trưa/Này con đường dẫn vào sân ga tắm trăng mơ…”, có thể qua những lời nhạc này
thì người lính tuy bôn ba chinh chiến nhưng vẫn còn có thể gặp lại bạn hữu, vẫn
còn có thể “cà phê ấm môi” và “cùng ôn chuyện cũ”, rồi còn có thể kể cho nhau
nghe về những câu chuyện xưa của hai người như “phượng vĩ bên đường, con đường
dẫn vào sân ga…”. Qủa thật, nếu không chú trọng đến cái cá nhân tính, cái riêng
tư thì làm sao có được những lời nhạc trên? Nếu không có thì hẳn hình ảnh người
lính đã sẽ khác đi rất nhiều và sẽ không bao giờ có nhấn mạnh những chi tiết
như trên và rồi đây chúng ta cũng đã thấy ở cuối ca khúc thì cái chết được đề cập
đến và cũng đặt trong mối riêng tư tương giao với hai lần vang vọng lên lời nhạc:
“Tiếng còi đêm lướt mau/ Đoàn tàu đi về mãi mà bạn thân tôi nơi đâu”, những lời
này đã cất lên ở phía cuối trong khi ở đầu câu thì mùa mưa trước người lính nọ
vẫn “…anh về đây ghé thăm tôi”, thật là buồn thương và sầu thảm nhưng rất cá
nhân. Có thể nói, những chi tiết vừa rồi đã nói lên sự khác biệt với hình ảnh về
người lính ở bên kia giới tuyến được khắc họa trong âm nhạc.
Ở bên kia giới tuyến, con người cá nhân bị mờ hẳn và nhường
chỗ cho những chủ đề về đấu tranh giai cấp, chủ nghĩa cộng sản, lao động sản xuất,
xông pha quyết tử, đó là đặc điểm của nhạc đỏ. Ví như những lời nhạc của “Trường
Sơn Đông, Trường Sơn Tây” (nhạc sĩ Hoàng Hiệp, thơ Phạm Tiến Duật) “Từ nơi em
đi sang bên nơi anh…”, cái ngôi anh và em của đôi lứa đã xuất hiện nhưng nối liền
ngay sau đó là cái tập thể, cái cộng đồng mà dường như nó là một bộ phận không
thể bị tách bạch“… những binh đoàn nối nhau ra tiền tuyến” và rồi kết lại với
“như tình yêu nối lời vô tận là Đông Trường Sơn nhớ Tây Trường Sơn”, có thể thấy
tình yêu đôi lứa vẫn hoàn toàn bị hình ảnh đoàn quân tập thể lấn át, mất dạng
trong đoàn quân và nhiệm vụ, sự nghiệp của đoàn quân, tình yêu đôi lứa thể hiện
không hề thuần túy và nó sẽ mất giá trị khi nó tách khỏi cái tập thể đầy uy quyền
đó, cái tính tập thể không hề bị giảm trừ đi để cái cá nhân ló dạng đôi chút mà
nhìn chung là phải có xu hướng nhấn mạnh đến cái chung, cái toàn thể, vậy nên dẫu
là có tình yêu đôi lứa nhưng vẫn phải gắn với “Trường Sơn Đông và Trường Sơn
Tây”, đó là con đường Trường Sơn trọng yếu mà miền Bắc XHCN liên tục tiếp viện
cho những vây cánh khác của họ ở miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.
Cái chết của người lính được mô tả bi ai như trong nhạc vàng
có lẽ là một điều tối kỵ ở nhạc đỏ vì có lẽ quá mang tính chất cá nhân và có thể
có nguy cơ làm cho lực lượng trở nên “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” và ngoài ra
là còn có rất nhiều những cụm từ trong các bài hát nhạc đỏ khác mà ở đó thể hiện
rằng đối tượng của nó không thể là một người, một bằng hữu tâm tình mà phải là
một tập thể như “dậy mà đi, hành quân, lòng chỉ biết có tiến công, dâng lên tới
đảng cả niềm tin tươi sáng ngời…”, những lời nhạc này đòi hỏi tính gò bó vào
khuôn khổ, phải luôn luôn nhấn mạnh đến cái chủ thể quyền lực chính tri - xã hội
và chính cái chủ thể đó là đại diện cho tính tập thể đang lên ngôi, đó là đảng
cầm quyền, là đơn vị….chứ không thể nào có những lời nhạc như trong ca khúc
“Qua cơn mê” của nhạc sĩ Duy Khánh: “Ngày đó tay em dài, vun cuộc tình thật đầy,
mơ toàn chuyện trên mây”, nếu như cứ mơ toàn chuyện trên mây thì có lẽ là sẽ bị
xem là “lệch lạc, mất quan điểm, mất lập trường”. Như vậy, ta có thể thấy rằng
các chủ đề nhạc đỏ không chấp nhận cá nhân tính, đã thủ tiêu cái dị biệt, cái tự
do cá nhân, không có chỗ dành cho chuyện riêng tư, xúc cảm thầm kín.
Như vậy, có thể nói dưới khung cảnh của miền Nam lúc bấy giờ
thì cái cá nhân được tôn trọng và rõ ràng sự tự do sáng tác và biểu diễn âm nhạc
lúc bấy giờ là một điều ưu việt của chế độ chính trị - xã hội lúc bấy giờ. Tâm
thức người Việt giờ đây tất nhiên là đã khác, chiến tranh đã kết thúc, con người
Việt sau khi gánh chịu những cơn bi kịch ác liệt trong lịch sử và chiến tranh
thì đã đến lúc tâm thức họ phải đòi hỏi cái gì đó về sự tự do, cái cá nhân, khi
đó thị hiếu tất yếu sẽ thay đổi và thị hiếu nghe nhạc sẽ có khoảng cách nhất định
hay thậm chí là dị ứng với những thể loại nhạc hô hào, tập thể đằng đằng sát
khí.Chế độ miền Nam tuy đã không còn nhưng di sản của nó phải phát huy những đặc
điểm ưu việt của nó trong đó có âm nhạc, cụ thể là những ca khúc nhạc vàng bởi
lẽ sau khi mọi người đã hiến mình quá nhiều cho thời cuộc thì đến lúc phải quan
tâm đến cái tự do, cái xúc cảm riêng tư của họ.Thiết nghĩ việc chính quyền hiện
nay cấm bất kỳ một bài nhạc vàng nào là một hành động bất khả thi và thể hiện
tính toàn trị trong lĩnh vực nghệ thuật, có lẽ nên biết rằng chẳng có gì có thể
ngăn cản cho sự tìm tòi, trở về với bản thân mỗi người, hành động vì sự tự do của
mỗi cá nhân. Chưa kể trong thời đại công nghệ thông tin thì sẽ có vô số cách thức
để mọi người có thể tiếp cận với âm nhạc mà chẳng cần đến sự công nhận của giới
chính thống, như vậy thì cùng lắm những ca khúc lọt vào tầm ngắm của chính quyền
thì không thể biểu diễn một cách công khai nhưng ngược lại thì chắc chắn không
thể cấm nổi việc người nghe nhạc vẫn có thể tìm chúng trên những nguồn khác và
việc cấm những ca khúc nhạc vàng là vẫn còn cho thấy cái tư duy “địch – ta” của
chính quyền, sẵn sàng suy diễn, chụp mũ lên những tác phẩm nghệ thuật, thể hiện
sự chính trị hóa toàn phần lĩnh vực nghệ thuật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét