Đặt vấn đề
Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa là không thể tranh cãi, dựa trên các yếu tố cấu thành chủ quyền của một quốc
gia về lãnh thổ đó là khẳng định chủ quyền về mặt nhà nước và sự đương nhiên thừa
nhận trong tập quán quốc tế. Việt Nam là quốc gia duy nhất có những dữ kiện địa
lý, bằng chứng lịch sử, cơ sở pháp lý quốc gia và quốc tế để xác lập chủ quyền
và khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nội
dung chính sách về biển của Nhà nước Việt Nam trong quá trình xác lập chủ quyền
về mặt nhà nước đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa luôn phù hợp với hệ
thống quy phạm pháp lý quốc tế về xác lập chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ.
Đó là một quốc gia khi xác lập chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ phải thể hiện đầy đủ tính chất về mặt nhà nước, tức là nhà nước đó có ban hành văn bản, chính sách và tổ chức quản lý hành chính vùng lãnh thổ đó hay không khi nó chưa thuộc chủ quyền của bất kỳ một quốc gia hay vùng lãnh thổ nào, đồng thời cách thức xác lập chủ quyền phải được thực hiện bởi tổ chức hành chính trực thuộc nhà nước. Xét về khía cạnh này, Việt Nam là quốc gia duy nhất trong khu vực Biển Đông đáp ứng đầy đủ tính chất về xác lập chủ quyền và khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa về mặt nhà nước theo quy định của luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế.
Đó là một quốc gia khi xác lập chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ phải thể hiện đầy đủ tính chất về mặt nhà nước, tức là nhà nước đó có ban hành văn bản, chính sách và tổ chức quản lý hành chính vùng lãnh thổ đó hay không khi nó chưa thuộc chủ quyền của bất kỳ một quốc gia hay vùng lãnh thổ nào, đồng thời cách thức xác lập chủ quyền phải được thực hiện bởi tổ chức hành chính trực thuộc nhà nước. Xét về khía cạnh này, Việt Nam là quốc gia duy nhất trong khu vực Biển Đông đáp ứng đầy đủ tính chất về xác lập chủ quyền và khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa về mặt nhà nước theo quy định của luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế.
Quá trình hoạch định và triển khai chính sách về biển của
Nhà nước Việt Nam qua các triều đại phong kiến đã được thể hiện rõ nét trong suốt
mọi giai đoạn lịch sử, nội dung đó đã hình thành và liên tục được kế thừa phát
triển qua các thể chế nhà nước. Đặc biệt, trong chính sách về biển đảo có nội
dung khẳng định chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa. Những chứng lịch sử đã chứng minh quá trình xác lập chủ quyền đối
với toàn bộ vùng biển đảo của Nhà nước Việt Nam, trong đó có hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa là một trong những nội dung cơ bản của quá trình triển khai
chính sách về biển đối với các Nhà nước phong kiến Việt Nam.
Trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của đất nước, chủ
quyền của Nhà nước Việt Nam trên các vùng biển đảo và hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa trong khu vực Biển Đông luôn được xác định rõ ràng, nội dung này được
thể hiện qua những nội dung cơ bản của quá trình hoạch định và thực thi chính
sách về biển của quốc gia, điều này hoàn toàn phù hợp với những nguyên tắc cơ bản
của luật quốc tế về xác lập chủ quyền đối với những vùng lãnh thổ vô chủ đương
thời.
Việt Nam trong thời kỳ Lê – Trịnh (1592 – 1788), đã chứng kiến
sự mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam của nhà Nguyễn ở Đàng Trong. Từ khi chúa
Nguyễn Hoàng (1558 -1613), đặt nền móng cho sự mở rộng bờ cõi mà đến đỉnh cao
là chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613 – 1635), vị chúa của những kỳ công mở cõi đầu
thế kỷ XVII. Trong thời kỳ này, chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa đã được xác lập và đi vào quản lý, khai thác một cách đồng
bộ vừa mang tính dân sự vừa mang tính quân sự. Tuy nhiên, do vấn đề lịch sử để
lại, bởi vậy, chủ quyền của Nhà nước Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa trên Biển Đông đã bị một số quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực bất chấp
những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nội dung của Hiến chương Liên
hợp quốc cũng như những quy định của luật biển quốc tế đã xâm chiếm trái phép
hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa và một số đảo đá thuộc quần đảo Trường Sa của Nhà
nước Việt Nam. Điều này, đã dẫn đến hệ quả là cuộc đấu tranh trên các phương diện
bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý quốc tế, luật pháp quốc gia và phương diện ngoại
giao nhằm khẳng định chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa là cuộc đấu tranh lâu dài nhưng oanh liệt, khó khăn và rất phức
tạp.
Tiếp cận cơ sở pháp lý quốc tế từ kết quả phân tích nội dung
chính của một số hội nghị quốc tế diễn ra trong thế kỷ XX, đã đương nhiên thừa
nhận chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
là hướng nghiên cứu mới. Những nội dung cơ bản được quy định trong các hội nghị
quốc tế có thể được xem là một trong những cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng để
Nhà nước Việt Nam làm căn cứ phục vụ cho cuộc đấu tranh trường kỳ để khẳng định
chủ quyền của mình, buộc các bên hữu quan có yêu sách phi lý về chủ quyền trao
trả quần đảo Hoàng Sa và một số điểm đảo đá, bãi ngầm, bãi cạn thuộc quần đảo
Trường Sa cho Việt Nam theo luật pháp quốc tế, bằng biện pháp hòa bình giải quyết
tranh chấp chủ quyền lãnh thổ.
Tuyên bố Cairo
Năm 1943, bối cảnh chung của thế giới có nhiều diễn biến phức
tạp, các mối quan hệ quốc tế liên tiếp diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau,
song mục đích chính của các nước lớn là tranh dành phạm vi ảnh hưởng và phân
chia lại biên giới lãnh thổ sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Bên
cạnh đó, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai đã bước vào giai đoạn khốc liệt
nhất. Để xem xét một số vấn đề quan trọng của thế giới có liên quan đến biên giới
lãnh thổ, đại diện ba nước Anh, Mỹ và Trung Quốc (Cộng hòa Trung Hoa do Tưởng
Giới Thạch đứng đầu) đã nhóm họp tại Cairo Thủ đô của Ai Cập ngày 27-11-1943, mà
lịch sử gọi là Hội nghị Tam cường Anh – Mỹ – Trung. Hội nghị kết thúc đã đưa ra
được Tuyên bố chung, trong tuyên bố có đoạn viết: Nhật Bản phải bị loại ra khỏi
tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà Nhật đã cướp hoặc chiếm đóng từ khi bắt đầu
cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất năm 1914, và tất cả những lãnh thổ Nhật
đã chiếm của Trung Quốc như Mãn Châu Lý, Đài Loan và Bành Hồ sẽ được trả lại
cho Cộng hòa Trung Hoa.[1] Ở đây chúng ta xem xét chủ quyền của Nhà nước Việt
Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên hai khía cạnh cơ bản:
Thứ nhất, vấn đề lãnh thổ của Trung Quốc, Tuyên bố Cairo đã
khẳng định ý chí của các cường quốc buộc Nhật Bản phải trao trả lại cho Cộng
hòa Trung Hoa các lãnh thổ mà Nhật Bản đã chiếm của Trung Quốc bao gồm: Mãn Châu
Lý, Đài Loan và Bành Hồ, không có gì liên quan đến chủ quyền của hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, bởi vì chủ quyền đó đã thuộc về Nhà nước Việt Nam từ
lâu.
Thứ hai, Tuyên bố Cairo đã không đề cập đến chủ quyền của quốc
gia nào đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tại sao vậy? Bởi vì, hai quần
đảo này đã thuộc chủ quyền của Nhà nước Việt Nam từ lâu, ít nhất là từ thế kỷ
XVII đã có những chứng cứ lịch sử chứng minh chủ quyền thuộc về Nhà nước Việt
Nam. Chính vì vậy, những người đứng đầu của hội nghị đã không đề cập đến chủ
quyền lãnh thổ của Hoàng Sa và Trường Sa là lẽ đương nhiên.
Tựu trung lại, nội dung của Tuyên bố Cairo năm 1943, được
xem là một trong những điều ước quốc tế quan trọng để hợp thành hệ thống cơ sở
pháp lý quốc tế nhằm khẳng định chủ quyền của Nhà nước Việt Nam trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Đồng thời là một trong những căn cứ pháp lý quốc tế quan
trọng để Nhà nước Việt Nam vận dụng, nhằm bác bỏ những luận thuyết sai trái về
hiện thực khách quan. Đồng thời phản đối sự khẳng định chủ quyền phi lý của
Trung Quốc đã xâm chiếm trái phép hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa và một số đảo đá
thuộc quần đảo Trường Sa của Nhà nước Việt Nam.
Hội nghị Postdam
Vào năm 1945, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai dần dần
đi vào kết thúc, thế giới có nhiều việc phải làm đối với các cường quốc thắng
trận như vấn đề lãnh thổ, phân chia phạm vi ảnh hưởng… Sau khi Thế chiến thứ
hai kết thúc ở mặt trận châu Âu, tháng 7-1945, đại diện ba nước lớn là Anh, Mỹ
và Liên Xô đã tổ chức nhóm họp tại Postdam của Đức, nội dung chính của cuộc họp
là để thảo luận về tương lai chính trị, đặc biệt về vấn đề tổ chức tuyển cử tại
các nước Đông Âu và Trung Âu. Hội nghị Postdam đã ra Tuyên bố chung ngày
26-7-1945, nội dung của Tuyên bố còn ấn định thể thức giải giáp quân đội Nhật Bản
sau khi chiến tranh Thái Bình Dương kết thúc.
Đối với Việt Nam, để giải giáp quân đội Nhật, ba nước Anh –
Mỹ – Liên Xô đã quyết định chia Việt Nam thành 2 khu vực từ vĩ tuyến 16, theo
đó quân đội Trung Hoa có nghĩa vụ giải giáp và hồi hương quân đội Nhật từ vĩ
tuyến 16 ra Bắc và quân đội Anh được ủy nhiệm giải giáp quân đội Nhật từ vĩ tuyến
16 trở vào Nam. Theo tuyên bố Postdam, phía Trung Quốc do phái đoàn Cộng hòa
Trung Hoa (Quốc dân đảng) có nghĩa vụ giải giáp quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 ra
Bắc, trong đó có quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam tọa lạc tại vĩ tuyến 16: nhóm
Lưỡi Liềm phía Tây Nam tại vĩ độ 16030’N và nhóm An Vĩnh phía Đông Bắc tại vĩ độ
16050’N. Trong khi đó, quân đội Hoàng gia Anh có nghĩa vụ giải giáp quân đội Nhật
từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, kể cả quần đảo Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến từ
120 đến 70 N, tính từ Cam Ranh xuống tỉnh Cà Mau. Nhiệm vụ đã được quy định rõ
ràng trong nội dung của tuyên bố Postdam, đó là lực lượng của các nước Cộng hòa
Trung Hoa và Anh thay mặt Đồng minh vào giải giáp quân Nhật, chứ không phải tiếp
thu hay chiếm hữu lãnh thổ của quốc gia đến làm nhiệm vụ. Xét tính chất đóng
vai trò quan trọng là nhiệm vụ đã được quy định rõ ràng trong bản tuyên bố là
giải giáp quân Nhật, đồng thời thực tế này cho thấy, các nước Đồng minh đã mặc
nhiên thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ của Nhà nước
Việt Nam là lẽ đương nhiên.
Tháng 8-1945, quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng vào miền Bắc
để tiến hành việc giải giáp quân Nhật ở đây. Sau một thời gian, Trung Quốc đã
ký với Pháp bản Hiệp ước Trùng Khánh vào ngày 28-2-1946. Theo nội dung chính của
Hiệp ước thì “Pháp khước từ trị ngoại pháp quyền và các quyền liên hệ khác tại
Trung Hoa” điều thể hiện rõ nét là Pháp trả Trung Quốc các tô giới tại Thượng Hải
và Quảng Châu Loan. Đổi lại Trung Quốc đồng ý để quân đội Pháp vào bắc vĩ tuyến
16 thay thế quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng để thực hiện nhiệm vụ giải giáp
quân đội Nhật. Ngay sau thời điểm đó, Chính phủ Pháp đã ký với Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa Hiệp định Sơ bộ vào ngày 6/3/1946, xoay quanh vấn đề nước
Pháp thừa nhận Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một Quốc gia tự do và tự
trị nằm trong Liên bang Đông Dương và trong Khối Liên hiệp Pháp và quân đội
Pháp sẽ ra miền Bắc của Việt Nam để thay thế quân Tưởng.
Hội nghị hòa bình
San Francisco
Hội nghị San Francisco được tổ chức từ ngày 4 – 8/9/1951, có
đại diện 51 nước tham dự để bàn về việc ký hòa ước hòa bình với Nhật Bản. Đầu
tháng 9-1951, theo lời mời của Chính phủ Mỹ, 51 quốc gia trước kia đã từng tham
gia hay có liên hệ tới cuộc chiến chống xâm lược Nhật Bản từ năm 1939 đến năm
1945 đã tham dự Hội nghị hòa bình nhóm họp tại thành phố San Francisco của Mỹ để
thảo luận vấn đề chấm dứt tình trạng chiến tranh và tái lập bang giao với Nhật
Bản. Phái đoàn Quốc gia Việt Nam đại diện cho Nhà nước Việt Nam do Thủ tướng
kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu thuộc Chính phủ Bảo Đại làm trưởng đoàn cũng được
mời tham gia hội nghị. Tuy nhiên, Trung Quốc và vùng lãnh thổ Đài Loan đều
không được mời tham dự Hội nghị. Trong Hội nghị này, nội dung chính là thảo luận
bản dự thảo hòa ước do hai nước Anh và Mỹ đề nghị ngày 12-7-1951. Ngày
8-9-1951, các nước tham dự Hội nghị đã ký hòa ước với Nhật Bản, ngoại trừ ba nước
còn lại là Liên Xô, Ba Lan và Tiệp Khắc đã không ký.
Mỹ đã gạt Trung Quốc ra ngoài Hội nghị, chính vì vậy, các
nhà lãnh đạo Trung Quốc ngay từ cuối năm 1950 đã có phản ứng gay gắt. Một mặt
Chính phủ Trung Quốc đã ra một số tuyên bố chính thức, mặt khác họ cho đăng các
bài báo để lên án việc không mời Trung Quốc tham dự Hội nghị và để trình bày
quan điểm của Trung Quốc về một số vấn đề cần phải được thảo luận, trong đó có
vấn đề chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 5-9-1951, trong phiên họp toàn thể thứ hai của hội nghị
San Francisco, đại biểu Liên Xô là Andrei A. Gromyko Tại phiên họp toàn thể
ngày 05/9/1951, Andrei Gromyko, trưởng đoàn đại biểu của Liên Xô đó đề nghị một
tu chỉnh trong Dự thảo Hòa ước với Nhật Bản, theo đó Nhật Bản công nhận chủ quyền
của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên các quần đảo Paracels và Spratlys.[2]
Nhưng Hội nghị đó bỏ phiếu bác bỏ tu chỉnh này với 46 phiếu thuận, 3 phiếu chống
gồm: Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc và một phiếu trắng.
Tại Hội nghị hòa bình San Francisco năm 1951, phái đoàn Quốc
gia Việt Nam tham gia Hội nghị đã ra tuyên bố khẳng định chủ quyền của Việt Nam
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 7-9-1951, Thủ tướng kiêm Ngoại
trưởng Trần Văn Hữu, trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam đã ra tuyên bố tái khẳng
định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước 51
phái đoàn ngoại giao của các nước thành viên Liên hợp quốc: Và để tận dụng
không ngần ngại mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống bất hòa, chúng tôi khẳng định
chủ quyền của chúng tôi trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ xưa đến nay
vẫn thuộc cương vực Việt Nam.[3] Lời tuyên bố đó đã được Hội nghị San Francisco
ghi vào biên bản và trong tất cả 51 phái đoàn tham dự hội nghị, không có một
phái đoàn nào phản đối thể hiện bằng văn bản. Không có bất cứ một đại diện nào
của 51 quốc gia tham dự Hội nghị có ý kiến phản đối hoặc bảo lưu đối với tuyên
bố trên của đại diện Việt Nam tại Hội nghị San Francisco.
Về khía cạnh pháp lý, với sự công bố khẳng định chủ quyền của
Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước 50 quốc gia
thành viên Liên hợp quốc tham dự hội nghị San Francisco năm 1951, cho thấy: từ
năm 1951 các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được các quốc gia trên thế giới
đương nhiên thừa nhận là lãnh thổ thuộc chủ quyền của Nhà nước Việt Nam trong một
Hội nghị quốc tế có sự tham gia của 50 quốc gia thành viên của tổ chức quốc tế
là Liên hợp quốc. Sự kiện 92% các quốc gia thành viên Liên hợp quốc thừa nhận
chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có
giá trị tuyệt đối phù hợp với luật pháp quốc tế, buộc các quốc gia khác phải thừa
nhận, kể cả đối với những quốc gia và vùng lãnh thổ không tham dự Hội nghị như
Trung Quốc và vùng lãnh thổ Đài Loan.
Việc hòa ước San Francisco tách riêng Đài Loan, Bành Hồ và
hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thành hai khoản riêng biệt (b, f) tự nó đã bao
hàm ý nghĩa không công nhận chủ quyền của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
thuộc về Trung Quốc. Tại khoản f quy định: Nhật Bản từ bỏ tất cả các quyền, tước
hiệu và đòi hỏi đối với quần đảo Spratlys and Paracels.[4]
Như vậy, việc phái đoàn Quốc gia Việt Nam tham gia Hội nghị
San Francisco tháng 9 -1951 và ra tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa là sự kiện có ý nghĩa quan trọng, nhằm chứng minh về sự xác lập
chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Nhà nước Việt Nam. Đây
được xem là cơ sở pháp lý quan trọng để Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ quyền ở
hai quần đảo này ra các hội nghị quốc tế và khu vực, tại các diễn đàn quốc tế
và khu vực, cũng có thể đưa vào hồ sơ pháp lý để đấu tranh với các bên có yêu
sách chủ quyền tại tòa án quốc tế.
Kết luận
Nghiên cứu những tư liệu và chứng cứ nêu trên cho thấy, rõ
ràng là những văn kiện pháp lý quốc tế từ Tuyên bố Cairo ngày 27-11-1943 và
Tuyên ngôn Hội nghị Potsdam ngày 26-7-1945 khẳng định lại nội dung Tuyên bố
Cairo cho đến Hòa ước San Francisco ký ngày 8-9-1951 đã không xác nhận chủ quyền
của bất kỳ quốc gia nào khác đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc
chủ quyền của Nhà nước Việt Nam. Đồng thời việc không một quốc gia nào tại Hội
nghị San Francisco được tổ chức vào năm 1951 phản đối hoặc bảo lưu về tuyên bố
của Trưởng Đoàn đại biểu Nhà nước Việt Nam lúc đó về khẳng định chủ quyền của
Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, điều này chứng tỏ
cộng đồng quốc tế đã mặc nhiên công nhận chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Như vậy, các vùng lãnh thổ mà Tuyên bố Cairo xác nhận và Hòa
ước San Francisco khẳng định lại là của Trung Quốc chỉ bao gồm Đài Loan và Bành
Hồ. Xuyên suốt các hội nghị quốc tế, từ Tuyên bố Cairo cho đến Hội nghị San
Francisco đều đã thừa nhận chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Sự thừa nhận chủ quyền thuộc về Nhà nước Việt Nam đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ 51 nước thành viên của tổ chức Liên hợp
quốc là cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng và sinh động, nhằm khẳng định chủ quyền
không thể tranh cãi của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.
Việt Nam cũng là quốc gia duy nhất trong khu vực và trên thế
giới có cơ sở pháp lý quốc tế từ các hội nghị quốc tế để tiếp tục đấu tranh khẳng
định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tiến tới buộc các
bên hữu quan có yêu sách chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
phải tiến hành trao trả lại cho Nhà nước Việt Nam đúng theo quy định của luật
pháp quốc tế.
TS. Nguyễn Thanh Minh công tác tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển,
Bộ Quốc phòng.
Bài viết này đã được đăng lần đầu trên Tạp chí Nghiên cứu
Trung Quốc (ISSN-0868 3670), số 6 năm 2014.
Xem thêm: Quan điểm của VN về chủ quyền trên quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa
—————-
[1] Hội nghị Cairo và Teheran 1943, trang 448. Văn kiện Bộ
Ngoại giao Mỹ, 1961 – Washington.
[2] Đề nghị của Andrei Gromyko như sau: “Nhật Bản công nhận
chủ quyền đầy đủ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên Mãn Châu Lý, đảo Đài Loan
cùng tất cả các đảo phụ cận của nó như Bành Hồ, Đông Sa quần đảo cũng như các đảo
thuộc Tây Sa quần đảo và Trung Sa quần đảo (quần đảo Paracels, nhóm đảo Vĩnh
An) và Nam Sa quần đảo kể cả các đảo Spratleys, và từ bỏ tất cả các quyền, danh
nghĩa và yêu sách đối với các lãnh thổ có tên nêu trên”. Conference for the
Conclussion and Signature of the Peace Treaty with Japan, Record of Proceedings
(Hội nghị tổng kết và ký kết Hòa ước với Nhật Bản) Washington D.C, Department
of State, 1951, p.119.
[3] Hội nghị ký kết Hòa ước với Nhật Bản trang 314. Văn kiện
của Bộ Ngoại giao Mỹ, tháng 12 năm 1951 – Washington.
[4] Hội nghị ký kết Hòa ước với Nhật Bản trang 314. Văn kiện
của Bộ Ngoại giao Mỹ, tháng 12 năm 1951 – Washington.
- See more at:
http://nghiencuuquocte.org/2017/03/26/hoi-nghi-quoc-te-chu-quyen-vn-hoang-sa-va-truong-sa-1943-51/#sthash.XYDxyCk3.dpuf
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét