Đoàn Ngọc Hải, tức Hải Vetu, còn
được mệnh danh là “Hung thần đường phố”. Nguồn: MTG
Những cái vỉa hè đã trở thành câu
chuyện thời sự số một ở Việt Nam hiện nay. Hình ảnh ông Phó Chủ tịch quận 1,
Đoàn Ngọc Hải đích thân xuống vỉa hè chỉ đạo bứng từ gốc cây, khiêng từng chậu
kiểng, câu từng cái xe, đập từng bậc thềm, phá từng kios,… tràn đầy trên các
trang mạng xã hội trong và ngoài nước. Vừa chỉ đạo, vừa thề thốt, “Không giải
phóng được vỉa hè, trả lại cho người đi bộ, ông sẽ cởi áo về vườn.”
Quyết tâm của ông làm người ta sửng
sốt. Xe của phái đoàn ngoại giao nước ngoài, ông câu ngay. Xe của hoa hậu, người
mẫu ư? Ông nói, “Chẳng có hoa hậu, hoa hiếc gì cả. Câu tuốt”. Mặc dù cái cô chủ
xe đang đứng đó năn nỉ ỉ ôi, sẵn sàng đóng phạt vi phạm mà cũng câu luôn. Đi từng
nơi, đập từng chỗ. Nhà hàng hay công sở, tiệm quán hay ngân hàng, đều đập hết.
Cái gì để trên vỉa hè, cái đó thuộc diện tịch thu. Cái gì ló ra, đập ngay cái
đó. Đơn giản là vậy. Ngay cả những di tích có tính chất lịch sử, ông cũng không
tha. Lịch sử lấn chiếm vỉa hè thì đập luôn lịch sử. Không có di tích, di tiếc
gì cả.
Ông xẻn cái vỉa hè giống như người
ta xẻn một cái bánh kem, xẻn sát rạt. Những chỗ ông và đoàn chiến dịch đi qua,
vỉa hè trở nên loang lổ, mặt tiền phố xá tan hoang. Trên các trang mạng xã hội,
người ta gọi ông là “Hung thần đường phố”. Nhưng trên phương diện chính quyền,
cấp trên hết lời khen ngợi, họ coi ông là “Anh hùng đường phố”.
Vậy thật ra, ông là “Anh Hùng”
hay “Anh Khùng”?
Chiến dịch “giải phóng vỉa hè” na
ná như “giải phóng Sài Gòn”. Mà tâm lý bây giờ thì giải phóng cái gì thì người
ta cũng sợ.
Quyết tâm ngất trời của ông đang
lồng lộng bay trên đường phố Sàigòn. Bỗng dưng xô dạt ký ức tôi về quá khứ. Cái thời niên thiếu trẻ con gắn chặt với các
vỉa hè.
Thời đó, bọn trẻ con chúng tôi
không có nhiều phương tiện giải trí giống như bây giờ. Những vỉa hè là chốn
giang hồ vặt của bọn tôi thời ấy. Tôi yêu con đường trước nhà nên bao giờ cũng
vác cặp tới trường rất sớm. Tuy từ nhà tới trường không xa, nhưng tôi thích
dành thời gian nhởn nhơ trên các vỉa hè. Chỗ này là xe hủ tiếu, với hình Quan
Công hoa Thanh Long Đao, Trương Phi dốc mâu kích gác chân trên cầu Trường Bản.
Tôi không có tiền mua hủ tiếu, nhưng hay la cà để ngắm hình Tam Quốc Chí. Những
lúc đó tôi có cảm tưởng mình sống lùi lại mấy ngàn năm. Lòng thành kính ngưỡng
mộ cái khí chất kiêu hùng của họ. Chỗ kia, cuối con đường là anh bán cà lem.
Cái thùng xốp đựng cà lem lạnh muốt. Tôi thích nhìn hơi lạnh toát ra giữa trưa
hè nóng gắt. Bụng dạ cứ phập phồng sợ cái nắng nóng làm tan chảy hết cà lem.
Cũng đôi khi tôi chỉ dừng lại ở một
góc phố, cốt ngắm người ta qua lại. Ngắm người là cả một niềm vui. Thú vị trong
trò chơi nho nhỏ chỉ có mình tôi biết. Họ là ai? Họ đi đâu và về đâu? Thử đoán
người ta bằng hình dung của họ. Trên con đường đó, ngày nào tôi cũng dừng lại
mua một gói xôi. Cái bà bán xôi dạo ấy là một bà già, rất già. Bà đội khăn mỏ
quạ, da mồi, tay run. Tôi thích nhìn bàn tay run run của bà khi đưa gói xôi nhỏ
cho tôi. Gói xôi nhỏ xíu, chỉ lủm một cái là hết, ăn không đủ no. Bọn trẻ nói
tôi ngu, vì bà bán đắt hơn những người khác. Tôi chỉ cười vì tôi có cách “trị”
cái cách bán đắt của bà. Trước khi ra khỏi nhà, tôi đã xuống bếp lục cơm nguội
ăn cả một nắm lớn. Gói xôi đó, tôi chỉ hưởng như hưởng hương, hưởng hoa mà
thôi. Bà là người Bắc di cư, có người Bắc nào mà không bán đắt? Bà có một đám
con cháu, tất cả sống vì cái thúng xôi này. Năm cắc một gói xôi tôi còn thấy
chưa thấm vào đâu, nữa là… Không hiểu sao họ sống nổi với cái thúng xôi đó.
Tôi không thể nào không kể hàng
bánh mì của bà trẻ. Cả mấy năm trời ngày nào tôi cũng ghé thế mà quên không hỏi
tên. Bánh mì của bà rất ngon, khách đông tới nỗi bà không kịp bán. Mới đầu tôi
ghé mua, nhưng thấy bà bán không kịp nên tôi bỏ cặp, xông vào giúp. Nướng bánh,
cời than, và gói là những việc tôi làm được. Cái bà trẻ này có một nụ cười hiền,
hàm trăng trắng bóc và đôi môi rất hồng. Bà là góa phụ, một mẹ ba con, nhan sắc
mặn mòi. Nhưng tôi không mê bà, mà lại đắm chìm trong cái bếp than nóng rực. Mỗi
khi cời than, bọt lửa bắn lên, tiếng nổ lách tách, tôi có cảm tưởng như đang ngắm
những vì sao rụng.
Cái chợ nhóm khúc trên vỉa hè này
chóng tàn lắm, chưa trưa đã vắng. Buổi trưa nó là con đường êm ả, đầy nắng. Tới
xế, khi có tiếng rao “Hủ”, tức là gánh tà hủ của ông Tàu già đã tới, tôi biết
lúc đó là 3 giờ. Cái ông Tàu này xuất hiện giống như một nhân vật trong tiểu
thuyết kiếm hiệp của Kim Dung. Ông mặc áo bào, áo rách tả tơi, đầu đội nón tre
bạc mầu nhọn hoắc, vai gánh tà hủ chậm rãi, đi như đếm từng bước. Không ai thấy
rõ mặt ông, cái nón lụp xụp che khuất gương mặt già nua, khắc khổ. Giọng của
ông trầm đục, lâu lâu rống lên độc một tiếng “Hủ”. Người lạ khó nhận ra tiếng “Hủ” này. Nó không
giống tiếng của con người. Âm thanh như tiếng con bò hộc lên rồi chết. Ngoài chữ
“Hủ” ra, ông không nói thêm tiếng nào, kể cả khi nhận tiền hay thối tiền. Hình
như cả xóm tôi không ai thắc mắc về điều đó. Người ta thích tà hủ của ông hơn.
Phải nói tà hủ của ông ngon độc nhất. Tôi mê tà hủ của ông mà cho tới bây giờ mới
biết đó là những chén tà hủ ngon nhất thế gian.
Có một lần, ông đang múc tà hủ
thì có một đám trẻ con rượt nhau, chúng té ập vào gánh hàng làm cả thùng tà hủ
của ông đổ nghiêng ra đất. Cảnh tượng này kinh khủng giống như một thảm họa vừa
rớt xuống đời ông. Cái cảnh ông cầm cái giá thiếc, bò ra đất vừa cào tà hủ, vừa
khóc rống. Lúc đó, tôi mới nhận ra, nước mắt đàn ông có sức mạnh gấp trăm lần
nước mắt đàn bà. Bây giờ mấy mươi năm rồi nhớ lại mà tôi còn chảy nước mắt. Cái
gánh hàng rong vốn liếng chỉ đáng một trăm đó là cả gia tài của một người già
nghèo khổ. Những cái gì của người già mất đi thì họ không còn có thể tìm lại một
lần nữa. Trong khi bọn trẻ chúng tôi lau nhau giúp ông dọn dẹp, mẹ tôi vét hết
tiền nhà cũng chỉ có 10 đồng. Ký ức tôi in đậm hình ảnh mẹ cầm cái chén tất tả
chạy kêu hàng xóm. Ai đi qua mẹ đều chặn lại xin xỏ. Cuối cùng cả xóm chung tay
được 40 đồng. Khi mẹ trao cho, ông Tàu xúc động khóc nấc, không thốt lên được một
tiếng cảm ơn nào. Cái buổi trưa đó nắng lóng lánh lắm. Tôi cứ có cảm tưởng là
vàng từ trên trời vừa rơi xuống đoạn đường này.
Kể không hết những kỷ niệm trên vỉa
hè, những góc phố mà tuổi thơ tôi đã đi qua. Bây giờ trở về, hình ảnh cũ đã
không còn. Nhưng những tiếng rao của những gánh hang rong vẫn còn vang vang
trong tâm khảm. “Ai ăn bánh ú, bánh tét hôn?”, “Chè đậu đen nấu đường cát trắng
đây”, “Hủ”, và những tiếng mì gõ lốc cốc xua tan cái tĩnh lặng của đêm khuya…
Đó là những bản nhạc chỉ có một lời. Ca từ là một vệt sâu lắng chìm trong ký ức.
Những cái vỉa hè đó, nó không chỉ
là lối riêng dành cho người đi bộ, nó còn mang cả sự sống của con người trên
đó. Nếu không có sự sống thì cái vỉa hè nào cũng giống nhau. Đơn giản vì nó chỉ
là một lối đi.
May mà thời của tôi không có ai
là Đoàn Ngọc Hải. Thế nên, cái mảng ký ức của tôi vẫn còn nguyên không bị xẻn mất
một góc nào. Những Đoàn Ngọc Hải hôm nay không sống nổi trong chế độ Việt Nam Cộng
Hòa.
Thời đó, cảnh sát cũng đi dọn dẹp
vỉa hè, họ cũng giành lại lối đi cho người đi bộ. Nhưng họ không có cách hành xử
như Đoàn Ngọc Hải.
Chỉnh trang độ thị, giành lại lối
đi, dọn dẹp vỉa hè,.. cả thế giới đều làm. Họ đã làm và làm rất hoàn hảo. Sao
ông Hải hay các lãnh đạo cao cấp khác không nghiên cứu trước khi thi hành.
Hãy coi những vỉa hè trên đường
phố Paris, những vỉa hè trên đường phố Ý, cả ở Mỹ nữa. Không có nơi nào người
ta xẻn sát rạt như cái cách Đoàn Ngọc Hải đang làm. Vỉa hè nó có vẻ đẹp riêng của
nó. Hãy thử tưởng tượng đường phố Việt Nam không có vỉa hè. Nó giống như gương
mặt một người đàn bà không có lông mày vậy. Bởi vì vỉa hè là một đặc điểm của
đường phố Việt Nam, là nét đẹp thu hút khách du lịch các nơi đổ về. Họ đi tìm
những cái mới lạ mà ở xứ họ không có.
Người ta đồng ý là vỉa hè bị người
dân lấn chiếm quá nhiều. Buôn bán tràn lan, luộm thuộm và mất trật tự, thiếu vệ
sinh, cần phải chỉnh trang. Nhưng chỉnh trang là làm đẹp chứ không làm mất.
Ông Hải và đoàn tùy tùng của ông
hành xử theo kiểu “gặp là đập”, cái gì cũng tịch thu mà ông gọi là làm việc theo
đúng quy trình. Quy trình đó là gì? Không ai biết. Ông cũng không giải thích. Cứ
chụp cho cái mũ “quy trình” thì hợp thức hóa cái cách đập phá của ông.
Ông đi tới đâu, người ta kinh hãi
tới đấy. Giống như đoàn Hồng Vệ Binh của thời Cách Mạng Văn Hóa bên Tàu.
Những nơi đoàn “Hồng Vệ Binh” này
đi qua, vỉa hè loang lổ, con phố tiêu điều. Cảnh tượng không khác gì thời chinh
chiến. Bao giờ thì người ta mới làm lại cho nết nét tan hoang? Còn những bậc thềm
tam cấp, ngũ cấp nữa. Nếu không có các bậc thềm này, làm sao người ta bước lên
bước xuống? Chẳng lẽ phải tập phóng, tập nhảy thay cho bước ra, bước vào ư?
Chiến dịch “Giải phóng vỉa hè”
ông Hải nói là để Sài Gòn đẹp như Singapore. Để Sài Gòn đẹp như Singapore thì
phải có cái đầu của Lý Quang Diệu. Bắt chước Singapore, không thể chỉ bắt chước
cái vỏ ngoài của nó. Nếu không nó chỉ là một thứ hàng nhái kiểu “Made in
China”. Cái nội lực của Singapore là Kinh Tế và Dân Trí. Đảng Cộng Sản chỉ chăm
chăm bảo vệ quyền lãnh đạo đã bỏ qua rất nhiều hợp đồng bạc tỷ, nhiều triệu
công ăn việc làm cho dân chúng. Cơ hội đã mất rất nhiều rồi. Nếu người dân có
việc làm tốt, không ai thích ngồi bán hàng rong, hoặc la cà trên vỉa hè đổi
chác vặt. Người dân chỉ mong nhà nước nắm bắt cơ hội hay hoạch định một chính
sách lớn.
Cần phải biết rằng, mỗi một chính
sách, mỗi một cơ hội, mỗi một hợp đồng cần phải thận trọng. Vì đó là quyền lợi
của toàn dân, không phải của một đảng.
Muốn thực hiện chỉnh trang đô thị
cần phải có một chính sách minh bạch và nhất quán, hợp với luật pháp. Cần có những
người am hiểu pháp luật nghiên cứu trong một thời gian dài. Bởi vì đây không phải
là một chính sách đơn giản.
Trước khi lập chính sách mới, một
sắc luật mới, chính quyền cần phải tham khảo luật nhà đất, diện tích đất đai, hồ
sơ đo đạc quy định của bộ Công Chánh, quy định diện tích của những con đường,
lòng đường và vỉa hè,… Cần nghiên cứu sự sai biệt giữa mặt đường và nền nhà sau
mỗi lần sửa đường làm nền nhà sụt lún. Quan trọng nhất là cần nghiên cứu tác động
ảnh hưởng kinh tế của những doanh nghiệp hai bên đường, của những người bán
hàng rong trên vỉa hè. Mức bồi thường thiệt hại, những mất mát do tịch thu,..
và chi phí để xây lại vỉa hè, xây lại mặt tiền của các doanh nghiệp. Ai là người
chịu trách nhiệm?
Để tiến hành chỉnh trang đô thị,
chỉnh trang vỉa hè, ông Đoàn Ngọc Hải phải có thông báo trên các phương tiện
truyền thông, nhà nước phải giải thích và thuyết phục với dân chúng. Phải có
thông báo và xác định rõ phần nào phải sửa chữa để các chủ doanh nghiệp, công sở,..
chuẩn bị tâm lý và tài chánh, đồng thời phải có thời hạn ít nhất 3 tháng để thi
hành.
Quan trọng nhất là phải giải quyết
được công ăn việc làm của người dân trên vỉa hè đó. Mỗi một chỗ ngồi của gánh
hàng rong nào cũng có cái giá của nó. Họ đã mua lại với giá từ $600 cho tới $3,000
dollars. Đó là cả một sản nghiệp, và là nguồn thu nhập chính cho cả gia đình họ.
Giật mất chén cơm tương đương như giật mất tính mạng của họ.
Chính quyền khuyến khích, các bà
gánh hàng rong hãy bán hàng trên mạng. Thời đại của internet, ngành Gánh Hàng
Rong cũng phải toàn cầu hóa. Việt Nam thời hội nhập đấy. Tội nghiệp cho những
gánh hàng rong! Xôi bán trên mạng ư? Nước mía trên mạng ư? Thôi thì cũng được.
Khỏi mất công rao, thanh toán bằng thẻ. Càng hay. Nhưng làm sao cho khách ăn
trên mạng đây? Chuyện chỉ có những người bại não mới nghĩ ra.
Nhưng mà việc giành lấy vỉa hè
cho nguời đi bộ nó quan trọng hơn việc giành lấy môi trường sạch, biển sạch sao
ta? Thủ tướng Phúc, Bí thư Thăng ca ngợi quyết tâm đòi lại vỉa hè, tại sao lại
không có quyết tâm đòi lại Trường Sa, Hoàng Sa?
Hay đấy chỉ là chuyện nhỏ?
Làm ngơ mới là chính sách lớn.
Cafe vỉa hè ở San Francisco. Ảnh:
John C. Flohr
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét