Tôi mượn câu tục ngữ này của ông
bà ta xưa kia làm đầu đề cho bài viết về Đồng bằng sông Cửu Long, nhân cuộc hội
nghị lớn diễn ra vào hai ngày 26 và 27 tháng 9 vừa qua do thủ tướng CP Nguyễn
Xuân Phúc chủ trì với những khẩu hiệu mới như: Chuyển đổi sản xuất, “Chung sống
với mặn”!
Trong cuốn sách nhan đề: “ Đồng bằng
sông Cửu Long- 40 năm nhìn lại” (360 trang, NXB Thanh Niên ấn hành năm 2015)
tôi đã nhấn mạnh:
“Gần 4 triệu ha đất sản xuất nông
nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long là một tài sản vô giá với Việt Nam. Nó cũng là
tiền đề để phát triển ngành du lịch không khói trong tương lai cho Đồng bằng
sông Cửu Long. Nông nghiệp hiện đại và du lịch là tương lai tươi sáng của Đồng
bằng sông Cửu Long”. (trang 224).
Vì thế, tôi theo dõi sát sao diễn
biến của Hội nghị quan trọng này, và vui mừng khi thấy kết luận của Hội nghị
là, để thích ứng với biến đổi khí hậu, chiến lược phát triển của ĐBSCL sắp tới
là hướng đến một nền nông nghiệp công nghệ cao, chú trọng công nghiệp chế biến
và công nghiệp phụ trợ. Đồng thời du lịch là mũi nhọn kinh tế thứ hai ở ĐBSCL
sau nông nghiệp.
Duy khẩu hiệu “Chung sống với mặn”,
tôi thấy cần phải làm sáng tỏ nhiều điều.
Mặn được đánh giá là tài nguyên,
nhưng mặn chỉ phù hợp với dải rừng ướt ven biển, với những nơi hội tụ đủ điều
kiện nuôi trồng thủy sản đem lại lợi nhuận cao, nhanh, và nghề làm muối. Trái lại,
mặn hủy diệt cây trồng nông nghiệp và kìm hãm phát triển dân cư, gây trở ngại lớn
cho cuộc sống con người. Vì thế mà các nước giàu có như Mỹ, Nhật chỉ tiêu thụ
tôm mà không nuôi tôm.
Ở những vùng nhiễm mặn ĐBSCL, từ
lâu, mặn đã bị coi là “kẻ thù” của nông dân. Vì thế, từ chỗ hoàn toàn phụ thuộc
vào nước trời mùa mưa, ở vùng mặn, người nông dân đã biết “luồn lách” để sống!
Họ tìm cách be bờ giữ ngọt, quai đê lấn biển, đào kênh dẫn ngọt, trữ ngọt mùa
mưa, tiết kiệm mùa khô…Ở vùng mặn, chỉ làm được một vụ lúa trông vào nước trời,
năng suất thấp. Khát vọng đổi đời của nông dân vùng mặn ĐBSCL kéo dài theo năm
tháng. Vì thế, không lấy gì làm lạ, từ sau hòa bình 1975, nhà nước và nông dân
đồng bằng đã nô nức làm những công trình thủy lợi đầu mối dẫn ngọt, ngăn mặn nhằm
ngọt hóa những vùng rộng lớn.
Nước ngọt phù sa từ sông Tiền,
sông Hậu đưa về đã xóa bỏ được bao cuộc đời mặn chát cơ hàn bấy lâu nay. Những
ai đã từng chứng kiến mùa khô dài dằng dặc, đất nẻ đến tận đáy ao, gió chướng
mang nặng hơi mặn từ biển dội vào, tàn phá làng mạc, mới thấy hết giá trị của
những dòng nước ngọt đem đến cho nông dân vùng mặn ở ĐBSCL. Lúa từ 1 vụ năng suất
thấp đã ùa lên thành 3 vụ năng suất cao. Rồi vườn tược, cây trái mọc lên từ phù
sa nước ngọt. Phù sa nước ngọt tạo nên quang cảnh bạt ngàn đồng lúa, xum xuê
cây trái mộng mơ của ĐBSCL mà bao thế hệ đã dày công xây đắp. Còn với mặn thì
ngoài con tôm không có gì nữa. Hơn thế, nuôi tôm là công nghệ sinh học, phải có
vốn lớn và phải hội đủ những điều kiện cần thiết. Không ít nông dân đã phá sản,
phải bỏ xứ ra đi vì chưa hội đủ những điều kiện cho nghề nuôi tôm. Chính vì vậy
mà tại hội nghị “Khôi phục, nâng cấp đê biển, đê cửa sông ĐBSCL” tại TP.HCM
ngày 14-7-2000 khi bàn đến vấn đề mặn-ngọt, cố vấn Võ Văn Kiệt đã nói: “Môi trường
ngọt là môi trường cao cấp, là vấn đề chiến lược ở ĐBSCL”.
Nay “ông trời hại” chúng ta, đưa
nước biển dâng cao, vì thế chúng ta phải chuyển đổi theo điều kiện thiên nhiên
đã chuyển đổi, chẳng còn cách nào khác, nói một cách nôm na như câu tục ngữ của
ông bà năm xưa là : “Đắm đò nhân thể rửa trôn” mà thôi!
Nhiều người đã vội reo lên đây là
“cơ hội”cho nông dân ĐBSCL làm giầu. Không đơn giản thế đâu. Nếu “chung sống với
mặn” mà giầu có thì các nước tiên tiến như Nhật, Mỹ sao họ không nuôi tôm mà lại
ra sức lấn biển, dẫn ngọt đến các vùng sát biển và đi mua tôm để ăn!
Định hướng lớn thứ hai ở ĐBSCL là
du lịch. Nên nhớ, du lịch ĐBSCL chỉ có thể thu hút khách đến các vùng nước ngọt
mà thôi. Vùng mặn đất xám xịt, cây cối tiêu điều xơ xác. Được mùa tôm thì con
gái đeo vòng vàng đầy người nhưng mặt mũi ngơ ngác, nước da xám xịt.
Để nói về cảnh sắc thiên nhiên
vùng ngọt của Đồng bằng sông Cửu Long, tôi muốn trích dẫn lời ông Phạm Quỳnh
trong sách “Quốc văn trích dẫn” xưa kia, khi ông đi tàu thủy từ Mỹ Tho lên Long
Xuyên: “…Suốt một ngày ngồi trong tàu thủy mà không mỏi, không chán, rất lạ, rất
vui…lúc nào cũng có cảm giác một sự sinh hoạt mạnh mẽ của tạo vật phát hiện ra
cây cối tốt tươi, bùn đất màu mỡ…tạo vật tươi cười, không lẽ người đời ủ dột, cảnh
này là cảnh “lạc sinh” vậy ?”
Cái thiên nhiên mà ông Phạm Quỳnh
xưa kia ngồi trong tàu thủy ngắm nhìn cả ngày “không chán”, ông thấy “rất lạ”,
“ rất vui”, “ tạo vật tươi cười” ấy, chính là thiên đường của ngành “công nghiệp
không khói”- tức ngành du lịch.
Ở đây, tôi phải mở ngoặc viết
thêm về cái gọi là miệt vườn ở Đồng bằng sông Cửu Long. Con sông Tiền đến Mỹ
Thuận thì tách làm hai nhánh chính: Sông Cái Thìa và sông Cổ Chiên. Khi tách
dòng, chảy vòng vèo, các nhà địa lý gọi Tiền Giang là sông già, cong queo, khác
với sông Hậu được gọi là sông trẻ, chảy thẳng. Nhưng chính sự già nua, vòng vèo
cong queo đó của Tiền Giang mới cho nó giữ lại một khối lượng phù sa lớn gom
thành những hòn cù lao làm bừng lên cả một thế giới miệt vườn lung linh huyền ảo
nơi đây…làm đắm say khách du lịch đến từ những xứ sở núi cao tuyết phủ hay hay
sa mạc khô cằn. Đã có nhà nghiên cứu viết sách với nhan đề “Đồng bằng sông Cửu
Long hay là văn minh miệt vườn”, có nhà văn hạ bút viết: “ Những trái mận (
doi- LPK) bằng nắm tay, đỏ chót như một cô gái miệt vườn, những trái vú sữa ửng
vàng, bóng căng, không thẹn với tên gọi. Những trái nhãn to bằng ngón chân cái,
khéo léo buộc thành xâu trông đẹp như chùm phong lan. Những trái chôm chôm rực vàng, chen đỏ, gai mềm,
dài, gai nhọn đâm vào da thịt mà lại…thấy êm dịu!… Rồi, cam từng thúng đầy ắp,
rồi quýt vàng mọng.”
Chính phù sa nước ngọt đã tạo nên
thế mạnh cho ngành du lịch ĐBSCL.
Rất mừng là chính phủ đã xác định
du lịch là chiến lược ở ĐBSCL qua hội nghị quan trọng vừa qua. Còn “chung sống
với mặn” là câu chuyện lâu dài, là thách thức to lớn. Với một hội nghị khoa học
mà có đến 500 đại biểu thì tôi e rằng, nó có tính “bầy đàn” của một cuộc
mít-tinh. Cũng may là chính phủ đã quyết định sẽ hai năm làm một cuộc hội thảo
cho ĐBSCL sắp tới. Hy vọng là những cuộc hội thảo cho ĐBSCL sau này, chỉ cần
100 đại biểu, nhưng toàn là các nhà quản lý có uy tín, các chuyên gia đầu ngành
quốc tế và trong nước. Và, không thể thiếu được các nhà xã hội học, các nông
dân giỏi, nhà văn, nhà báo có tên tuổi
am hiểu về vùng đất này. Vì đây là bàn chuyện của con người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét