Một cuộc đình công tại Việt Nam.
Kế hoạch tăng thuế
Nhà nước có bộ nào thì Đảng CSVN
có ban đó. Dân bị đánh thuế hai lần, sống trong tình cảnh “một cổ hai tròng”.
Trong tháng 8 vừa qua Bộ Tài
Chánh Việt Nam đã đề nghị một số biện pháp sửa đổi liên quan đến thuế giá trị
gia tăng, thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc
biệt và thuế tài nguyên thiên nhiên. Bộ Tài Chánh Việt Nam đã đề nghị
tăng thuế giá trị gia tăng (GTGT) nói chung từ 10% lên 12%, dự trù bắt đầu có
hiệu quả từ 2019. Thuế suất GTGT lại có thể tăng từ 12% lên 14% vào 2021.
Một số sản phẩm cần thiết đối với
các ngành nông nghiệp, y tế, giáo dục, khoa học và kỹ thuật hiện nay chịu thuế
suất GTGT 5%, sẽ phải trả 6% trong tương lai. Phân bón, dụng cụ nông nghiệp, và
tàu đánh cá ngoài khơi cũng sẽ phải trả thuế GTGT thay vì hoàn toàn được miễn
thuế như hiện nay.
Theo đề nghị của Bộ Tài Chánh, xe
tải mui trần sẽ phải trả thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) cao hơn. Thuế suất 15% sẽ
áp dụng cho xe có xylanh lên đến 2,500 phân khối, 20% cho xe có đến 3,000 phân
khối và 30% cho các xe lớn hơn. Những gói thuốc lá gồm 12 điếu sẽ phải trả thuế
suất TTĐB 75% kể từ 2019 và tất cả các gói thuốc lá sẽ phải trả thêm VNĐ 1,000
kể từ 2020. Nước ngọt hiện nay được miễn thuế, nhưng kể từ 2019 sẽ phải chịu
thuế suất TTĐB là 10%.
(Chart: Nguyễn Quốc Khải)
Cũng theo đề nghị của Bộ Tài
Chánh, thuế bảo vệ môi trường được dự trù tăng từ 3,000 VNĐ/lít xăng dầu lên đến
VNĐ 8,000/lít. Đối với tài nguyên, thuế suất đã được tu chính vào 2015 và đã có
hiệu lực từ 01-07-2016. Tuy nhiên tài nguyên có khung giá tính thuế mới bắt đầu
có hiệu lực kề từ 01-07-2017.
Doanh nghiệp tiếp tục được hưởng
thuế suất thuận lợi. Thật vậy hiện nay các doanh nghiệp chịu thuế suất thu nhập
giảm xuống còn 20%, so với 32% trước đây. Theo đề nghị của Bộ Tài Chánh, thuế
suất thu nhập doanh nghiệp mới 15% sẽ áp dụng cho các công ty nhỏ và trung bình
có thu nhập hàng năm dưới VNĐ 3 tỷ, và 17% cho các công ty có thu nhập hàng năm
trong khoảng từ VNĐ 3 tỷ – VNĐ 50 tỷ.
Hiện tại, thuế thu nhập cá nhân
là 5% áp dụng cho những người có thu nhập hàng tháng từ VNĐ 5 triệu trở xuống
và 10% cho VNĐ 5 triệu kế tiếp. Trong tương lai thuế thu nhập cá nhân là 5% sẽ
áp dụng cho những ai có thu nhập hàng tháng từ VNĐ 10 triệu trở xuống.
Tóm lại, Bộ Tài Chánh đề nghị
tăng thuế GTGT và tiêu thụ đặc biệt đồng thời giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp
và cá nhân. Mục đích chính của những biện pháp này là để giảm ngân sách quốc
gia thiếu hụt và nợ công.
Ngân sách quốc gia thiếu hụt
Ông Đinh Tiến Dũng, Bộ Trưởng Tài
Chánh, từng tuyên bố rằng “Điều hành ngân sách như đi trên dây”. Thật vậy, Việt
Nam đang gặp phải vấn đề ngân sách thiếu hụt trong nhiều năm qua và tương lai
cũng không được sáng sủa. Theo thống kê của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (International
Monetary Fund – IMF), ngân sách nhà nước thiếu hụt tăng từ VNĐ 22.1 ngàn tỷ (5%
GDP) vào năm 2000 lên đến VNĐ 293 ngàn tỷ (6.5% GDP) vào năm 2016. Trong khi
đó, nhà nước ấn định mức ngân sách thiếu hụt không được quá 3.5% vào năm 2020.
Kể từ năm 2000 đến nay, năm nào ngân sách cũng bội chi. Theo dự đoán, ngân sách
tiếp tục thiếu hụt vào những năm 2017-2018.
TS Lê Hồng Hiệp thuộc Viện Nghiên
Cứu Đông Nam Á (Institute of South East Asian Studies) tại Singapore, nhận định
rằng chi phí về hành chánh, an sinh xã hội, lương bổng, đặc biệt an ninh và quốc
phòng đã gia tăng đáng kể trong nhiều năm qua. Đây là nguyên nhân chính làm cho
ngân sách thiếu hụt. Ngoài ra, Việt Nam còn phải trả tiền lời và vốn trên những
món nợ công. Riêng tiền lời phải trả là VNĐ 95 ngàn tỷ cho năm 2016 và VNĐ 99
ngàn tỷ và VNĐ 126 ngàn tỷ lần lượt cho các năm 2017 và 2018 theo dự đoán.
Khoảng 98% nợ nước ngoài của Việt
Nam trong những năm gần đây xuất phát từ nguồn Viện Trợ Phát Triển Chính Thức
(Official Development Assistance - ODA) với lãi suất rất thấp khoảng 1% và thời
gian hoàn trả nợ từ 15 – 40 năm. Trong số món nợ ODA, thông thường có ít nhất
25% là số tiền viện trợ không phải hoàn trả. Nay Việt Nam không còn được vay từ
nguồn ODA nữa. Khi được xếp vào hạng các nước có thu nhập trung bình (middle
income), Việt Nam phải trả tiền lời cao hơn và thời gian đáo nợ ngắn hơn.
Thu nhập cho ngân sách quốc gia của
Việt Nam có gia tăng nhờ kinh tế phát triển khoảng trên 6% mỗi năm nhưng không
bắt kịp chi phí. Thu nhập về thuế từ VNĐ 32.8 ngàn tỷ vào năm 2005 tăng gấp 23
lần lên đến VNĐ 761 ngàn tỷ vào năm 2016. Tuy nhiên thu nhập về dầu thô đã giảm
xuống một cách đáng kể. Vào năm 2012 Việt Nam xuất cảng một số lượng dầu trị
giá VNĐ 125 ngàn tỷ khi giá dầu thô (Brent crude) còn trên US$ 100/thùng. Nay
con số này xuống chỉ còn 55 ngàn tỷ đồng vào 2016 và ước tính tiếp tục đi xuống
tới khoảng VNĐ 40 ngàn tỷ trong hai năm tới 2017-2018 vì giá dầu thô trên thị
trường quốc tế tiếp tục ở mức thấp. Trong 4 tháng vừa qua, giá dầu thô (Brent
crude) ở trong khoảng US$ 48 - US$ 54.2/thùng. Khoản tiền viện trợ không phải
hoàn trả cũng giảm từ VNĐ 10 ngàn tỷ vào năm 2012 xuống còn 3 ngàn tỷ vào năm
2016. Ngoài ra, theo báo cáo của Ngân Hàng Thế giới về kinh tế Việt Nam vào
tháng 7, 2017, ngân sách nhà nước mất một số thu nhập vì việc hủy bỏ thuế nhập
cảng (import tariff) qua những hiệp định thương mại tự do.
Nợ công gia tăng
Theo báo cáo của mạng tin tài
chánh The Economist, tổng số nợ công của Việt Nam tính đến ngày 16-7-2017 là
US$ 94.854 tỷ, khoảng US$ 1,039 mỗi đầu người. Nợ công của Việt Nam gia tăng
liên tục trong nhiều năm qua, tương đương với 36% của tổng sản phẩm nội địa
(gross domestic product – GDP) vào năm 2001. Con số này lên tới 62.4% vào năm
2016. IMF dự đoán nợ công của Việt Nam sẽ là 63.3% và 64.3% so với GDP vào 2017
và 2018 trong khi đó nhà nước giới hạn mức nợ công vào 2020 là 65% của GDP. Từ
2010 đến 2015, mức tăng trưởng của GDP trung bình là 5.9%. Trong khi nợ công
tăng trung bình hàng năm gấp 2-3 lần GDP.
Dự đoán của Ngân Hàng Thế Giới
còn bi thảm hơn. Theo đó nợ công có thể gia tăng đến 65.4% của GDP vào năm
2022. Tuy nhiên nếu bội chi ngân sách không giảm và tiếp tục ở mức độ của năm
2017, nợ công có thể gia tăng đến 70.1% của GDP vào 2022 tức là vượt xa mức cao
tối đa. Ngoài điều kiện bội chi ngân sách vừa kể, nếu có thêm thay đổi lớn về
lãi suất trên thị trường tài chánh quốc tế vào 2018, nợ công của Việt Nam có thể
lên đến 74% của GDP vào 2022. Nhiều quốc gia cả giầu lẫn nghèo đều vay nợ ít
hay nhiều để phát triển. Đối với Việt Nam tỉ lệ nợ công/GDP an toàn không thể
quá 40%.
Ông Bộ Trưởng Tài Chánh Đinh Tiến
Dũng trong buổi nói chuyện với Quốc Hội ngày 25-5-2017 cho biết rằng nợ công
tăng nhanh như vậy là vì quản trị và sử dụng các món nợ yếu kém. Ông cũng nói
thêm rằng một số cơ sở không có khả năng trả nợ khiến nhà nước phải lãnh chịu
vì đã đứng ra bảo lãnh những món nợ này.
Khi nợ công lên cao, nhà nước sẽ
phải bỏ ra những số tiền rất lớn để trả tiền lời hàng tháng. Do đó, ngân sách sẽ
tiếp tục thiếu hụt, không có nhiều tiền để đầu tư vào những dự án phát triển
kinh tế, mua võ khí cho quốc phòng.
(Chart: Nguyễn Quốc Khải)
Theo định nghĩa của Quỹ Tiền Tệ
Quốc Tế và Ngân Hàng Thế giới, nợ công bao gồm nợ trực tiếp bởi nhà nước (trung
ương và đia phương) và những món nợ được chính phủ bảo đảm (public and publicly
guaranteed debt - PPG). PPG có hai phần: quốc nội và quốc ngoại. Theo định
nghĩa của chính phủ Việt Nam, nợ công không bao gồm nợ bởi Ngân Hàng Trung
Ương, công ty quốc doanh và những cơ sở do nhà nước quản trị. Một số tài liệu
nghiên cứu ở trong nước chỉ đề cập đến nợ công của chính phủ trung ương.
Giải pháp
Nợ công và thiếu hụt ngân sách
nhà nước là hai khía cạnh của một vấn đề chung là tài chánh quốc gia. Chánh phủ
Việt Nam dự tù tăng thuế giá trị gia tăng, tiêu thụ đặc biệt, và thuế bảo vệ
môi trường để bù vào bội chi ngân sách khoảng VNĐ 450,000 tỷ. Biện pháp tăng
thuế bị chống đối mạnh mẽ. Ô. Nguyễn Sinh Hùng, khi còn là chủ tịch Quốc Hội,
cũng đã phải tuyên bố rằng đất nước lúc này không phải là lúc để tăng thuế. Việc
dự trù tăng thuế môi trường từ VNĐ 3,000/lít xăng dầu lên đến VNĐ 8,000/lít bị
dân chúng chỉ trích nặng nề vì giá xăng dầu ở Việt Nam đã quá cao so với thu nhập
của người dân và so với các quốc gia trong vùng. Cuộc phỏng vấn của Đài Tự Do Á
Châu (RFA) phổ biến vào ngày 18-04-2017 cho thấy một số chuyên gia kinh tế được
tiếp xúc đều cho rằng tăng thuế xăng dầu quá mức chịu đựng của dân chúng và nền
kinh tế. Người dân còn tố cáo rằng nhà nước tăng thuế môi trường nhưng không phải
là để bảo vệ môi trường mà là để lấy tiền lấp vào lỗ trống trong ngân sách.
TS Vũ Thanh Tự Anh, một nhà
nghiên cứu tại Harvard Kennedy School đồng thời là giám đốc nghiên cứu của
Fulbright Economics Teaching Program tại Việt Nam, cho rằng không thể giải quyết
tình trạng nợ công gia tăng và ngân sách thiếu hụt giản dị bằng cách bắt dân trả
thuế thêm. Thuế GTGT “không có mắt”, không phân biệt giầu nghèo. Mọi người tiêu
thụ phải trả cùng một thuế suất. Do đó, người ta gọi GTGT là thuế lũy thoái
(regressive tax) thay vì lũy tiến (progressive tax). Nghĩa là nó làm tổn hại
người nghèo nhiều hơn người giầu. Nhà nước không thể cứ chi tiêu bừa bãi, để
cho cán bộ đục khoét tài sản quốc gia, rồi bắt dân è cổ ra chịu.
Biện pháp hữu hiệu hơn cả là cải
tổ việc quản trị và sử dụng các món nợ vì đây là nguyên nhân to lớn góp phần
vào nợ công gia tăng. Những công ty quốc doanh thua lỗ triền miên là những thí
dụ điển hình. Vụ Trịnh Xuân Thanh làm thất thoát ngân quỹ của Tổng Công Ty Xây
Lắp Dầu Khí Việt Nam VNĐ 3,300 tỷ rồi trốn qua Đức đã thu hút sự chú ý của những
nhà đầu tư quốc tế về tình trạng tham nhũng tại các công ty quốc doanh ở Việt
Nam.
Khối tài sản đang nằm trong tay của
các công ty quốc doanh ở Việt Nam trị giá khoảng US$ 300 tỷ. Nếu những công ty
này hoạt động hữu hiệu đã mang lại nguồn tài chánh và kỹ thuật để phát triển đất
nước. Nhưng kết quả trái ngược. Kế hoạch cải tổ khu vực quốc doanh qua việc cổ
phần hóa đã tiến hành trong vài thập niên, nhưng chưa đạt được tiến bộ đáng kể.
Những công ty quốc doanh vẫn tiếp tục nhận được nguồn tài trợ với những điều kiện
ưu đãi so với các công ty tư nhân. Gần đây số một luật lệ được thiết lập để giảm
bớt sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế, ngăn cấm khu quốc doanh đầu tư
vào những khu vực không phải là cốt lõi, ngăn chặn việc ăn cắp tài sản, và xúc
tiến nhanh chóng việc tư nhân hóa một số công ty quốc doanh lớn.
Bộ Tài Chánh sẽ thâu về được khoảng
4 tỷ Mỹ kim khi hoàn tất việc bán 10 công ty bao gồm Công Ty Cổ Phần Sữa Việt
Nam, Công Ty Đầu Tư và Phát Triển Công Nghệ FPT, Công Ty Cổ Phần Viễn Thông
FPT, Bảo Hiểm Bảo Minh, Công Ty Tái Báo Hiểm Quốc Gia Việt Nam, Công Ty Nhựa Tiền
Phong, Công Ty Nhựa Bình Minh, Công Ty Đầu Tư và Phát Triển Hạ Tầng Việt Nam,
Công Ty Cổ Phần Cơ Khí Khoáng Sản Hà Giang, Công Ty Xuất Nhập Khẩu Sa Giang có
thể mang về 3 tỷ Mỹ kim. Những dự định tương tự đang được sắp xếp.
Tư nhân hóa khu vực quốc doanh sẽ
chấm dứt sự hoang phí tài nguyên quốc gia và mang lại một số tiền lớn lao cho
ngân sách và bù đắp vào bội chi ngân sách. Để việc cải tổ khu vực quốc doanh
nhanh chóng và hữu hiệu, biện pháp cổ phần hóa cần đi đôi với việc cải tổ ban
quản trị của các công ty chưa thể giái vốn 100%. Nếu không, các nhà đầu tư sẽ
không tin tưởng để bỏ vốn vào.
Chính Đảng CSVN với bốn triệu đảng
viên là một gánh nặng lớn lao cho ngân sách quốc gia vì tất cả mọi chi phí cùa
CSVN đều được trang trải bởi ngân sách quốc gia, từ lương bổng cho đến các cơ sở
và hoạt động của Đảng CSVN. Theo số liệu của Bộ Tài Chánh Việt Nam, ngân sách của
nhà nước đã dành cho Văn Phòng Trung Ương Đảng CSVN VNĐ 11.8 ngàn tỷ từ
2006-2015 (không kể năm 2009 vì không có số liệu), hơn cả Văn Phòng Quốc Hội
(VNĐ 9.1 ngàn tỷ), Văn Phòng Chính Phủ (VNĐ 6.3 ngàn tỷ), và Văn Phòng Chủ Tịch
Nước (VNĐ 1.0 ngàn tỷ). Ngân sách dành cho Văn Phòng Trung Ương Đảng CSVN chiếm
41.8% trong tổng ngân sách dành cho bốn cơ quan này trong thời gian chín năm.
Xin nhấn mạnh một điều ở đây rằng ngoài Văn Phòng Trung Ương còn các văn phòng
thành ủy, tỉnh ủy, huyện ủy. Dưới đó có đảng ủy xã/phường/thị trấn theo tổ chức
của Đàng CSVN.
Hơn thế nữa ngân sách quốc gia
còn tài trợ cho những tổ chức chính trị dưới hình thức các tổ chức ngoại vi và
các tổ chức xã hội dân sự trá hình của Đảng CSVN, đặc biệt Mặt Trận Tồ Quốc,
Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam, Đoàn Thanh Niên Cộng
Sản Hồ Chí Minh, Hội Nông Dân Việt Nam, và Hội Cựu Chiến Binh. Sáu tổ chức này
liên hệ mật thiết với Đảng CSVN, nhận được VNĐ 1.5 ngàn tỷ trong năm 2016 từ
ngân sách nhà nước. Riêng việc quản lý Lăng Chủ Tịch Hồ Chí Minh chi tiêu mất
VNĐ 318.7 Tỷ trong năm 2016.
Trên thực tế, dân vừa đóng thuế
cho nhà nước vừa đóng thuế cho Đảng CSVN. Ô. Nguyễn An Dân, tác giả bài báo “Đảng
CSVN sẽ lấy tiền đâu để chi tiêu” trên mạng của “Tin Tức Hàng Ngày” gọi tình trạng
này là “một cổ hai tròng”. Nhà nước có bộ nào thì Đảng CSVN có ban đó. Những
nhà tài trợ quốc tế thường xuyên gây áp lực để tách Đảng CSVN ra khỏi ngân sách
quốc gia. Nếu điều này tạm thời chưa thể thực hiện được thì một giải pháp thực
tiễn cần áp dụng ngay là sát nhập cơ quan đảng vào nhà nước. TS Lê Hồng Hiệp
cho biết rằng thí nghiệm này đã thực hiện tại tỉnh Quảng Ninh có tên gọi là “nhất
thể hóa cơ quan đảng và chính quyền”.
Kết luận
Trên nguyên tắc có bốn biện pháp để
giải quyết ngân sách thiếu hụt (1) tăng thuế; (2) giảm chi tiêu; (3) phát triển
kinh tế; và (4) biện pháp hỗn hợp. Giải pháp (4) hỗn hợp giữa (2) và (3) xem ra
thích hợp nhất đối với tình hình Việt Nam hiện nay.
Tăng thuế làm người nghèo thiệt
thòi một cách bất công, làm tăng lạm phát, cản trở việc phát triển kinh tế, và
có thể làm cho ngân sách bội chi và nợ công rơi vào vòng luẩn quẩn. Hơn bao giờ
hết, để phải đương đầu với ngoại xâm, Việt Nam phải xây dựng sức mạnh kinh tế để
có sức mạnh quân sự. Phải đẩy mạnh xuất cảng mới có tiền mua võ khí. Một chiếc
tầu ngầm lớp Kilo của Nga trị giá US$ 300-US$ 400 triệu.
Giảm chi tiêu là một giải pháp
hơp lý và khả thi. Nó sẽ không những không cản trở mà trái lại còn giúp phát
triển kinh tế. Cổ phần hóa những công ty quốc doanh, ngoại trừ một số ít cần
nhà nước quản trị vì lý do an ninh và quốc phòng. Nhà nước không cần phải lo việc
sản xuất giấy, quần áo, thực phẩm, bia và rượu, nước ngọt, nhựa, cao su, bảo hiểm,
khai thác khoáng sản, … Giải thể những công ty quốc doanh thua lỗ. Biện pháp
này còn có tác dụng tích cực cho kinh tế phát triển.
Loại bỏ hay sát nhập các cơ quan
của Đảng CSVN cùng có nhiệm vụ giống nhự các bộ vào guồng máy nhà nước cũng sẽ
tiết kiệm rất nhiều cho ngân sách. Giảm bớt số nhân viên đồng loạt cho tất cả
các bộ trong guồng máy chính quyền dân sự và công an khoảng 10% – 20% trong
vòng năm năm. Đây không phải là một giải pháp mới lạ. Nhiều quốc gia đã áp dụng
như Canada vào thập niên 1990. Đối với Việt Nam, những chi phí thường xuyên
hàng năm như hành chánh, lương bổng, an sinh xã hội, an ninh, và quốc phòng
tăng rất nhanh trong vài năm qua. Những chi phí này chiếm khoảng 66.3% trên tổng
chi phí của ngân sách nhà nước Việt Nam vào 2016, so với 18.7% trả tiền lời, và
15.0% chi phí đầu tư theo số liệu của Bộ Tài Chánh Việt Nam. Chi phí thường
xuyên hàng năm là một yếu tố quan trọng nhất làm ngân sách thiếu hụt. Việt Nam
cần phải sáng suốt và cương quyết thực hiện biện pháp này vì tình hình đất nước
nguy ngập bị ngoại xâm đe dọa, giặc đã ở ngoài ngõ rồi, không cho phép chính
quyền chần chừ được.
Tất cả những phần cần phải giảm
chi kể trên đều là gánh nặng cho quốc gia, không nằm cho khu vực sản xuất. Cho
nên biện pháp giảm chi này sẽ không làm kinh tế thoái hóa mà trái lại còn giúp
cho nhà nước giảm được mất mát vì thua lỗ và giải tỏa được nguồn tài chánh để
dành cho việc phát triển. Những biện pháp cải tổ kinh tế và cấu trúc chính quyền
tích cực kể trên sẽ tạo thêm sự tín cậy vào nền kinh tế và sẽ khuyên khích đầu
tư nước ngoài.
Một ảnh hưởng tích cực của việc
ngân sách thiếu hụt dai dẳng và nghiêm trọng và nợ công tăng nhanh là nhà cầm
quyền Việt Nam thấy đã đến lúc phải cải tổ sâu rộng cấu trúc của guồng máy
chính quyền và kiểm soát nghiêm chỉnh chi tiêu cùa Đảng CSVN, không thể trao
cho khu vực nhà nước yếu kém đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét