Lời Dẫn: “History à
la carte”, là một thuật ngữ rất mới của Chương Lập Phàm/ Zhang Lifan
một sử gia Trung Quốc, khi trả lời phỏng vấn báo New York Times [March,
2015], ông đã đưa ra một ví von: “lịch sử theo thực đơn / history à la
carte”, theo cái nghĩa nhà nước Trung Quốc chỉ muốn phổ biến tuyên
truyền những điều thấy có lợi, trong khi cố né tránh những khía cạnh
tiêu cực có thể gây chỉ trích. Mối liên hệ thắm thiết giữa Bắc Kinh và
Khmer Đỏ đang là trang khuyết sử, không có trong thực đơn của Trung
Quốc. (1) (Ngô Thế Vinh)
“Không có trợ giúp của Trung Quốc,
chế độ Khmer Đỏ không thể tồn tại quá một tuần lễ. Without China’s
assistance, Khmer Rouge regime would not last a week” Andrew Mertha, Cornell University 2014. (2)
“Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc không
có liên hệ chính trị nào với Khmer Đỏ. Sự trợ giúp chỉ giới hạn trong
việc cung cấp thực phẩm và nông cụ.” Trương Kim Phong/ Zhang Jinfeng, đại xứ TQ tại Cambodia, 2010. (1)
Dân số Cambodia 2017 hơn 16 triệu, tăng rất nhanh hơn gấp đôi so với năm 1975 chỉ có hơn 7.5 triệu, hơn 90% theo Đạo Phật Nguyên Thuỷ hay Phật giáo Nam Tông / Theravada Bhudism được coi như quốc giáo của Cambodia. Các sắc tộc thiểu số chính bao gồm: người Việt, người Chăm, người Hoa.
CHÂU ĐẠT QUAN, VÀ CHÂN LẠP PHONG THỔ KÝ
Vào cuối thế kỷ 13, triều đại nhà Nguyên
/ Yuan một người Tàu tên Châu Đạt Quan / Chou Ta-Kuan周达观 gốc Ôn Châu /
Wenzhou tỉnh Phúc Kiến, nhà hải hành Trung Hoa, đã du hành từ Biển Đông
rồi theo sông Mekong lên tới Biển Hồ tới thăm Angkor (1296) vào thời vua
Indravarman III, lưu lại đó gần một năm (1297). Châu Đạt Quan không
phải là người Tàu đầu tiên tới xứ Chùa Tháp, nhưng ông được biết tới do
cuốn hồi ký kỳ thú Chân Lạp Phong Thổ Ký 真臘風土記, viết về
địa lý nhân văn nước Chân Lạp tức Cambodia ngày nay; cuốn sách sau đó
được dịch sang tiếng Pháp [Mémoires Mémoires sur les Coutumes du
Cambodge], tiếng Anh [The Customs of Cambodia], tiếng Đức [Sitten in
Kambodscha], và tiếng Việt của ký giả Lê Hương, do Kỷ Nguyên Mới xuất
bản 1973.
Học
giả Tây phương như Peter Harris, người có công dịch từ nguyên bản tiếng
Hán sang tiếng Anh đã đối chiếu chuyến du hành thám hiểm của Marco Polo
và Châu Đạt Quan trong cùng thời kỳ này.
Có lẽ người Tàu đã có mặt trên xứ Chùa
Tháp sớm hơn nhiều. Trường hợp Châu Đạt Quan cũng giống như Henri Mouhot
sau này, tuy Mouhot (1826-1961) không phải là người Tây Phương đầu tiên
tới Angkor nhưng do những trang bút ký hấp dẫn và lôi cuốn được in ra 3
năm sau khi ông mất khiến tên tuổi Mouhot đã gắn liền với khu đền đài
Angkor.
NGƯỜI TÀU TRÊN ĐẤT MIÊN
Do người Tàu hầu như đã có mặt khắp nơi trên thế giới, nên mới có câu tục ngữ ví von: “Ở đâu có khói, thì ở đó có người Tàu! Where there’s smoke, there’s Chinese ”.
Bước sang thế kỷ 21, câu ví von trên mang thêm một ý nghĩa khác: “Ở đâu
có khói, thì ở đó có Tàu! Where there’s smoke, there’s China ” theo cái
nghĩa, nơi nào có Tàu nơi đó có ô nhiễm, vì Trung Quốc là quốc gia hàng
năm thải ra 9.7 tỉ tấn khí CO2, chiếm 1/4 tổng lượng khí thải nhà kính /
greenhouse gases toàn cầu, nhiều hơn của cả hai nước kỹ nghệ Mỹ và Ấn
Độ cộng lại.
Vào khoảng cuối thế kỷ 17, đời nhà Thanh do những biến động chính trị ở Hoa lục với phong trào Bài Mãn Phục Minh nên
đã có đông đảo những cộng đồng người Hoa di cư xuống các nước Đông Nam Á
như Việt Nam, Cambodia, Lào, Thái. Họ có gốc gác từ các tỉnh duyên hải
phía đông nam Trung Quốc như Hải Nam, Quảng Đông, Phúc Kiến, mà người
Khmer gọi một tên chung là Cambodia’s Hua Chiao hay người Hoa hải ngoại /
Overseas Chinese. Đặc điểm của đám di dân này đa số là đàn ông, và qua
những cuộc hôn nhân hợp chủng, họ mau chóng hội nhập vào các cộng đồng
cư dân bản địa.
Không ít các cấp lãnh đạo xứ Chùa Tháp
đều ít nhiều có mang huyết thống Hán tộc bước sang thế hệ thứ hai thứ ba
như Lon Nol [ông ngoại là người Hoa gốc Phúc Kiến/ Fujian], Ieng Sary
[sinh đẻ ở Trà Vinh, nam Việt Nam, mẹ gốc Hoa], Khieu Samphan [cũng có
gốc Hoa từ bà ngoại], Nuon Chea [có cha người Hoa và mẹ người Khmer lai
Hoa], Pol Pot [có cha là người Khmer gốc Hoa và Saloth Sar là một tên
khác của Pol Pot, Sar có nghĩa là trắng trong ngôn ngữ Khmer, để phân
biệt với nước da rất sậm của người Khmer thuần chủng]…
Sau thời kỳ Khmer Đỏ, trong những năm
gần đây, đã lại có thêm những đợt người Tàu từ Hoa Lục, Đài Loan, Mã Lai
di cư vào Cambodia tìm cơ hội làm ăn lập nghiệp.
Người Tàu có khả năng thích nghi cao, họ
tới các thành phố nhưng cũng có mặt cả những vùng thôn quê hẻo lánh. Và
điều ai cũng nhận thấy là các cộng đồng người Hoa dễ dàng được đón nhận
và họ không có khó khăn để hoà nhập vào xã hội người Miên. Do có tài
buôn bán và cần cù chịu khó lại đoàn kết nên họ nhanh chóng trở thành
những doanh nhân thế lực khống chế nền thương mại kinh tế và cả có nhiều
ảnh hưởng chính trị trên quốc gia này.
Rất khác với người Việt cho dù đã trải
qua nhiều thế hệ, sinh đẻ trên đất Miên nhưng họ vẫn luôn luôn bị kỳ thị
do mối thù hận lịch sử và bị người Khmer gọi một cách bỉ thử là bọn
“Yuon / bọn bắc”, và cả với cộng đồng người Chăm theo đạo Islam cũng bị
người Khmer nghi kỵ vì bị coi như hợp tác với người Việt trong quá khứ
như một lực lượng kìm kẹp. Người Việt và người Chăm sống trên đất Miên
là hai cộng đồng thiểu số bị sát hại nhiều nhất qua chính sách tẩy sạch
chủng tộc / ethnic cleansing trong thời kỳ Khmer Đỏ.
Không có con số chính xác về số người
Tàu hiện sống ở xứ Chùa Tháp, con số 500 000 vẫn được xem là quá thấp,
vì số đông người Miên gốc Hoa / Chinese Cambodian đã được coi như người
Miên không nằm trong con số thống kê này.
KHMER ĐỎ VÀ CHINA CONNECTIONS
700 năm sau chuyến du hành thăm xứ Chùa
Tháp của Châu Đạt Quan, mối liên hệ giữa Cambodia và Trung Quốc là một
chặng đường lịch sử rất gập ghềnh và phức tạp. Nếu lấy dấu mốc kể từ
ngày Pháp trao trả độc lập cho Cambodia (1953), thì dù với thể chế nào,
từ thời ông Hoàng Sihanouk tới Lon Nol, rồi Pol Pot hay Hun Sen; mối
liên hệ song phương giữa Bắc Kinh và Phnom Penh luôn luôn có một mẫu số
chung: đó là “chính sách đối trọng” của Bắc Kinh đối với Việt Nam, làm
sao giảm thiểu ảnh hưởng của Việt Nam trên quốc gia láng giềng này. Cho
dù cả Bắc Kinh và Hà Nội vẫn rêu rao mối quan hệ khăng khít “môi hở răng
lạnh” giữa hai đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc với khẩu hiệu “bốn
tốt và 16 chữ vàng” nhưng Bắc Kinh thì luôn luôn theo đuổi một chiến
lược nhất quán và giấu mặt cốt sao làm suy yếu Việt Nam đưa quốc gia này
vào vòng lệ thuộc. Cũng phải kể tới “một cuộc chiến môi sinh” không
tuyên chiến của Bắc Kinh, huỷ hoại con sông Mekong cũng là huỷ hoại Đồng
Bằng Sông Cửu Long, là vựa lúa cũng là nguồn sống của Việt Nam.
Rất sớm, cấp lãnh đạo Khmer Đỏ đã được
Chủ tịch Mao Trạch Đông tiếp đón tại Bắc Kinh và ca ngợi. Tháng 9, 1977
Pol Pot lại sang viếng thăm Trung Quốc và được Hoa Quốc Phong, người kế
thừa Mao Trạch Đông tiếp đón trọng hậu. Pol Pot khẳng định, “Đối với Cambodia, sự giúp đỡ quý báu nhất của Trung Quốc là tư tưởng Mao Trạch Đông”.
Vẫn
còn đó những trang sử chưa được soi sáng: mức độ liên hệ giữa Trung
Quốc với chế độ diệt chủng Khmer Đỏ. Cho đến nay, đối với Trung Quốc đó
vẫn là điều cấm kỵ / taboo, một hộp đen / black box mà Bắc Kinh tránh
nhắc tới và muốn mọi người lãng quên.
Và cũng không ngạc nhiên để hiểu tại
sao, trong bao nhiêu năm, Bắc Kinh luôn luôn chống đối việc đưa ra các
lãnh tụ Khmer Đỏ ra xét xử chính vì mối e ngại những điều sẽ được phanh
phui trước toà. Những sự thật ấy nếu được phô bày ra trước thế giới, đó
là một hổ thẹn về thể diện quốc gia / national embarassment cho nhà nước
Trung Quốc.
Khi được hỏi và phải lên tiếng thì các
viên chức Trung Quốc hoặc tìm cách phủ nhận hoặc cố giảm thiểu tầm quan
trọng của mối liên hệ này. Zhang Jinfeng / Trương Kim Phong đại sứ Trung
Quốc tại Cambodia, năm 2010 đã tuyên bố: “Cộng Hoà Nhân Dân Trung
Quốc không có liên hệ chính trị nào với Khmer Đỏ. Sự trợ giúp nếu có chỉ
giới hạn trong việc cung cấp thực phẩm, và nông cụ như lưỡi cào, liềm
hái.”
Nhưng theo Youk Chhang người sống sót
sau Khmer Đỏ, hiện là Giám đốc Trung Tâm Tài liệu Cambodia /
Documentation Center of Cambodia thì sự thật không phải như vậy. Theo hồ
sơ lưu trữ và những lời khai của các cựu viên chức Khmer Đỏ thì “Cố
vấn Trung Quốc có mặt cả với đám cai tù / prison guards lên tới cấp
lãnh đạo cao nhất của Khmer Đỏ; và Trung Quốc chưa bao giờ chịu thừa
nhận hoặc xin lỗi cho sự kiện này.” (1)
Theo sử gia Milton Osborne thì phần tham
dự dính líu của Trung Quốc với Khmer Đỏ có tầm mức sâu rộng và quan
trọng hơn rất nhiều. Từ trước và sau 1975, Khmer Đỏ đã được Trung Quốc
trực tiếp hỗ trợ trên mọi phương diện.
Theo Andrew Mertha, Giám đốc Chương
trình Nghiên cứu Trung Quốc và Á châu Thái Bình Dương / China and Asia
Pacific Studies Program tại Đại học Cornell, cũng là tác giả cuốn sách Brothers in Arms; Chinese Aid to the Khmer Rouge 1975-1979, thì
chính Trung Quốc đã cung cấp 90% viện trợ cho Khmer Đỏ: từ lương thực,
các thiết bị xây dựng tới trọng pháo, xe tăng và cả máy bay. Cho dù biết
Khmer Đỏ đang tàn sát chính nhân dân Cambodia nhưng đám cố vấn quân sự
và các kỹ sư Trung Quốc vẫn cứ tiếp tục trợ giúp cho những người bạn
đồng minh cộng sản của họ. Andrew Mertha khẳng định: “Không có trợ giúp của Trung Quốc, Khmer Đỏ không thể tồn tại quá một tuần lễ.” (2)
Giới nghiên cứu cho rằng ít nhất có tới
hàng chục ngàn cố vấn Trung Quốc được mệnh danh là “chuyên viên kỹ
thuật” hiện diện kín đáo từ cấp lãnh đạo cao nhất của Khmer Đỏ xuống tới
hạ tầng, cùng với viện trợ quân sự với đủ loại súng đạn vũ khí và cả
huấn luyện. Trung Quốc còn giúp Khmer Đỏ xây dựng đường xá, cầu cống,
đường sắt, nhà máy lọc dầu kể cả một phi trường lớn nơi tỉnh Kampong
Chhnang cách thủ đô Nam Vang hơn 90 km, với đường bay dài 2.4 km; tới
cuối năm 1978 các công trình này gần như hoàn tất. Có giả thiết cho
rằng, phi đạo ấy có thể sẽ được Trung Quốc sử dụng như điểm xuất phát
cho các máy bay quân sự ném bom oanh kích các tỉnh phía nam Việt Nam khi
có chiến tranh. [Hình 4]
Có
lẽ Hà Nội thấy trước được nguy cơ cận kề đó, lại bị quân Khmer Đỏ đồng
loạt tấn công các tỉnh biên giới phía tây, nên tháng 12 năm 1978, hơn
100,000 quân Việt Nam đã tràn qua Cambodia lật đổ chế độ Pol Pot và lập
nên một chính phủ Phnom Penh ban đầu thân Việt Nam. Và để cứu chế độ
Khmer Đỏ khỏi hoàn toàn sụp đổ, Trung Quốc cũng đã mở ngay các cuộc
Chiến tranh Biên giới 1979 phía bắc Việt Nam như một áp lực trả đũa mà
Đặng Tiểu Bình đã giận dữ gọi “Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam một bài học”.
Những trang sử về mối liên hệ của Trung
Quốc và chế độ Khmer Đỏ diệt chủng đã và đang bị kiểm duyệt, không chỉ
bởi Bắc Kinh mà nơi chính quốc gia nạn nhân do những lợi lộc nhỏ nhặt
trước mắt. Cho dù đó là chặng đường lịch sử đẫm máu và đen tối nhất của
quốc gia Cambodia trong Thế kỷ XX nhưng vẫn không được soi sáng.
Ngay
chính Hun Sen, ở cương vị Thủ tướng Cambodia cho dù không thể công khai
ngăn cản việc đem ra xét xử các tội phạm Khmer Đỏ, nhưng ông vẫn đưa ra
lời cảnh báo như một hăm doạ rằng: “nếu để việc điều tra và xét xử
Khmer Đỏ đi quá xa, Cambodia sẽ có nguy cơ nội chiến.” Trong khi đó thì
Om Mak, một người dân tỉnh Banteay Meanchey thì cho rằng lo ngại của ông
Hun Sen là không có cơ sở, ông ta nhận xét: “Tôi không nghĩ rằng việc
mở rộng điều tra tội ác Khmer Đỏ sẽ khơi mào cho chiến tranh. Không ai
trốn trong rừng cả, cũng không ai có đủ võ trang để gây bất ổn cho đất
nước.”
Cũng dễ hiểu khi biết Hun Sen có gốc gác
từ Khmer Đỏ, sau đó mới đào ngũ sang Việt Nam năm 1977, ban đầu thân
Việt Nam nhưng nay thì đang chọn đi vào quỹ đạo Trung Quốc.
LỊCH SỬ THEO THỰC ĐƠN
Chương Lập Phàm / Zhang Lifan một học
giả cũng là sử gia Trung Quốc, khi trả lời phỏng vấn của New York Times
[March, 2015] đã đưa ra một thuật ngữ ví von: “lịch sử theo thực đơn / history à la carte”,
theo cái nghĩa nhà nước Trung Quốc chỉ muốn phổ biến tuyên truyền những
điều thấy có lợi, trong khi cố né tránh những khía cạnh tiêu cực có thể
gây chỉ trích. (1)
Câu chuyện kể lại, khi có đoàn du khách
tới thăm Viện Bảo Tàng Diệt Chủng Tuol Sleng ở thủ đô Nam Vang [Hình
6,7], trước tiên viên hướng dẫn du lịch hỏi có ai trong đoàn tới từ
Trung Quốc không, không có ai lên tiếng hoặc giơ tay, khi ấy anh ta mới
yên tâm thuyết trình về cuộc chiến diệt chủng của Khmer Đỏ từ 1975 với 2
triệu người chết và trong đó có vai trò của Trung Quốc.
Sau này, anh ta giải thích thêm là nếu
có người Tàu trong đoàn du khách thì “Họ sẽ rất giận dữ khi nghe tôi nói
Pol Pot được Trung Quốc trợ giúp nên mới giết được nhiều người đến như
vậy.” Và họ đáp trả là “Điều đó không có thật, hơn nữa bây giờ chúng ta là bạn, không nhắc về quá khứ nữa.” (1)
Chuẩn
bị kỷ niệm 70 năm kết thúc Thế chiến Thứ II vào tháng 9, 2015 với cuộc
diễn hành quân sự vĩ đại, Bắc Kinh không quên lên án tội ác chiến tranh
của quân đội Nhật Bản, và Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường/ Li Keqiang
nói với báo giới: “Giới lãnh đạo Nhật Bản phải nhận lãnh những trách nhiệm lịch sử về tội ác của các thế hệ trước.”
Nhưng điều trớ trêu là chính Trung Quốc
không hành xử như vậy đối với các tội ác tầy trời của chính họ trong quá
khứ. Kuni Miakabe, một nhà ngoại giao Nhật hồi hưu đã mai mỉa về chính
sách nước đôi / double standard của Bắc Kinh mà ông gọi là “tiêu chuẩn toàn cầu về liêm khiết trí thức / the global standard of intellectual fairness”; đó
là một mặt thì yêu cầu các quốc gia khác không xoá bỏ lịch sử /
whitewash the history nhưng chính Trung Quốc lại không muốn nhắc tới
phần trách nhiệm về cái chết của 45 triệu người do chính sách Đại Nhẩy Vọt / Great Leap Forward của
Mao Trạch Đông, cũng như tội ác về cuộc Cách mạng Văn Hoá 1966-76 gây
chết chóc và chấn thương cho cả một thế hệ và rồi mới đây là vụ thảm sát
sinh viên đòi dân chủ ở Thiên An Môn. Và Trung Quốc đã không hề có một
Viện Bảo tàng cho những giai đoạn lịch sử như vậy.” (1)
Nhà nước Trung Quốc rõ ràng có một chính
sách “uốn nắn lịch sử” khởi đầu từ trong các trường học. Các bộ sách
giáo khoa về lịch sử đã tránh đề cập tới thời kỳ Khmer Đỏ, kể cả cuộc
Chiến tranh Biên giới 1979 do Đặng Tiểu Bình phát động để trừng phạt
Việt Nam và cứu chế độ Pol Pot cũng bị kiểm duyệt và không được nhắc
tới. Chính sách kiểm duyệt lịch sử từ sách vở tới báo chí truyền thông
của Trung Quốc hữu hiệu tới nỗi đa số các sinh viên đại học ở Trung Quốc
hầu như không biết gì về cả hai sự kiện này.
Nhìn về Việt Nam thì giới viết sử chính
thống theo tuyên giáo của đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt bảy thập
niên qua cũng không hơn gì Trung Quốc. Môn sử học cũng chỉ là một công
cụ chính trị cho những chế độ độc tài trên thế giới.
HUN SEN ĐI VÀO QUỸ ĐẠO TRUNG QUỐC
Sinh năm 1952 tại một ngôi làng nhỏ
thuộc tỉnh Kompong Cham bên bờ con sông Mekong, nhưng khai sinh sớm hơn
[4/4/1951], để đủ tuổi gia nhập Khmer Đỏ. Học vấn qua bậc tiểu học, sau
đó tham gia các phong trào tranh đấu. Có gốc là sĩ quan Khmer Đỏ, bị
thương hư một mắt khi theo Pol Pot tấn công thủ đô Phnom Penh tháng 4,
1975. Sau đó đào ngũ qua Việt Nam trước 1979.
Khi quân CS Việt Nam tràn qua Cam Bốt,
lật đổ chính quyền Khmer Đỏ, Hun Sen được đưa lên làm Ngoại Trưởng trẻ
nhất năm 27 tuổi, rồi Thủ tướng Cambodia từ tháng 1, 1985 lúc mới 33
tuổi, giữ ghế Thủ tướng cho tới nay đã hơn 32 năm, lâu nhất của cả thế
giới. [Phnom Penh Post, Jan 21, 2010]
Và
nếu không có gì bất ngờ, Hun Sen sẽ còn thống lĩnh chính trường Cam Bốt
và là khuôn mặt lớn của khối ASEAN trong hàng thập niên nữa.
Lãnh đạo Đảng Nhân Dân Cam Bốt, Hun Sen được giới ngoại giao và báo chí coi như một thứ “Người Hùng” của Cambodia.
Sẽ thiếu sót, nếu không ghi nhận ở đây, trong thời gian làm Thủ tướng, ông Hun Sen đã nhận được khoảng hơn 10 học vị Tiến sĩ Danh dự từ
các đại học khác nhau trên khắp thế giới, trong đó có 2 học vị Tiến sĩ
của Hà Nội: một về Chính trị học (1991), và một về khoa Giáo Dục (2007).
Với từng ấy quyền lực và hào quang, Hun Sen được quốc vương Sihanouk
phong cho phẩm tước cao quý “Samdech” [Wikipedia] và còn được mệnh danh
là “Đứa Con của Đế quốc Khmer / The Son of the Khmer Empire”.
Năm 1987, Hun Sen từng bị Amnesty
International lên án vi phạm nhân quyền vì các vụ tra tấn tù nhân chính
trị. Nổi tiếng cai trị bằng đôi bàn tay sắt, nhưng cũng không thiếu tai
tiếng về các vụ tham nhũng về đất đai, dầu khí và các hợp đồng khai thác
tài nguyên của Cambodia. Bị các đối thủ lên án là “bù nhìn” của Hà Nội,
nhưng thực tế Hun Sen rất bản lãnh và độc lập, tuy không công khai lên
tiếng chống Việt Nam nhưng đã dần dần từng bước chọn đưa đất nước
Cambodia tiến gần vào quỹ đạo của Bắc Kinh; với dòng sự kiện:
Tháng 11, 2010 – Thủ
tướng Hun Sen, sau Hội Nghị Thượng Đỉnh ACMECS ở Nam Vang, lại một lần
nữa đã bác bỏ mọi mối quan ngại về ảnh hưởng của các đập thủy điện trên
thượng nguồn đối với dòng chảy sông Mekong. Ông khẳng định rằng chu kỳ
lũ lụt hay hạn hán mới đây là hậu quả của thay đổi khí hậu / climate
change và khí thải carbon / carbon emissions chứ chẳng liên hệ gì tới
chuỗi những con đập thủy điện của Trung Quốc.
Tháng 6, 2009 – Fred
Pearce trong một tường trình Environment 360 Đại học Yale cho rằng xây
đập chắn ngang sông Mekong là một đòn giáng nghiêm trọng / major blow
đối với con sông Mekong dũng mãnh. Trung Quốc đang xây hàng loạt những
con đập trên khoảng 2,800 dặm khúc sông Mekong thượng nguồn, sẽ giới hạn
dòng chảy, làm mất đi chu kỳ lũ lụt hàng năm / annual flood pulse, con
sông Tonle Sap chảy ngược vào Biển Hồ, như một trong những kỳ quan thiên
nhiên của thế giới.
Tháng 7, 2005 – Thủ
tướng Hun Sen, rất sớm cách đây 12 năm, trước khi sang dự Hội Nghị
Thượng Đỉnh Côn Minh, đã tỏ ra thỏa mãn với tình hình khai thác con sông
Mekong như hiện nay, theo ông chẳng có vấn đề gì phải quan tâm. Ông
công khai lên tiếng ủng hộ Bắc Kinh, đối với kế hoạch khai thác sông
Mekong, ông còn cho rằng các ý kiến chỉ trích chỉ để chứng tỏ họ chú ý
tới môi sinh, và đôi khi họ dùng đó như thứ rào cản nhằm ngăn sự hợp tác
nên có giữa 6 quốc gia.
Tháng 11, 2002 – Tyson
Roberts thuộc Viện Nghiên Cứu Nhiệt Đới Smithsonian đã phát biểu: “Xây
các đập thủy điện, khai thông thủy lộ, với tàu bè thương mại quá tải sẽ
giết chết dòng sông. Các bước khai thác của Trung Quốc sẽ làm suy thoái
hệ sinh thái, gây ô nhiễm tệ hại, khiến con sông Mekong đang chết dần,
cũng giống như con sông Dương Tử và các con sông lớn khác của Trung
Quốc.
TAM GIÁC VÀNG BẮC KINH – NAM VANG – HÀ NỘI
Cho đến nay cũng đã 38 năm kể từ ngày
hơn 100 ngàn quân Việt Nam tràn qua Cambodia lật đổ chế độ Khmer Đỏ và
giải phóng đất nước này. Nhiều lãnh tụ cao cấp Khmer Đỏ đã chết trước
khi bị đem ra xét xử. Pol Pot / Anh Cả là nhân vật số 1 đã chết từ
15.04.1998.
Riêng hai ông Nuon Chea / Anh Hai và Khieu Samphan/ Anh Ba là hai nhân vật cao cấp nhất của Khmer Đỏ còn sống đã bị Tòa án xét xử tội ác diệt chủng ở Cambodia / Extraordinary Chambers in the Courts of Cambodia (ECCC) do Liên Hiệp Quốc bảo trợ, cả hai đã bị kết án tù chung thân từ ngày 07.08.2014.
Và rồi chỉ mới đây thôi, ngày
23.06.2017, hai ông Nuon Chea và Khieu Samphan lại được ECCC đưa ra tái
xét xử với những tội danh khác. Ông Nuon Chea 90 tuổi nguyên Thủ Tướng,
do vấn đề sức khoẻ chỉ ngồi theo dõi phiên toà trước màn hình trong nhà
giam, và qua luật sư của mình, ông cho biết chỉ coi phiên toà như một
trò trình diễn “show trial”.
Riêng ông Khieu Samphan 85 tuổi, có học
vị tiến sĩ Đại học Paris, được coi như lý thuyết gia, nguyên Chủ tịch
nhà nước Campuchia Dân chủ / Khmer Đỏ thì có mặt và đã có lời nói cuối
trước toà, ông đã hoàn toàn bác bỏ cáo buộc “tội ác chống nhân loại và diệt chủng.”
CÙNG NHAU GIẢI LỜI NGUYỀN
Khó mà kiếm được người Miên nào nói tốt
về người Việt đang sống trên đất nước của họ. Một thành viên nhóm bảo vệ
nhân quyền ở Nam Vang đã nói với ký giả báo Far Eastern Economic Review
(FEER 1994): nếu có được quyền lựa chọn thì đa số người Khmer đều muốn
tống xuất tất cả người Việt ra khỏi Cambodia. Chống Việt Nam bằng bất cứ
luận điệu nào cho dù đúng hay sai vẫn luôn luôn là một chiêu bài rất ăn
khách và dễ dàng được đa số người Miên cả tin và lắng nghe.
Không lẽ bước sang Thế kỷ XXI một cách
rất vô lý Việt Nam lại phải đưa vai ra gánh phần trách nhiệm về tội ác
mà kẻ thực sự chủ mưu là Trung Quốc thì lại dấu mặt. Để giải toả mối oan
khiên đó, chưa bao giờ khẩn thiết như lúc này, phải có một giới sử gia
chân chính viết nên những trang sử về thời kỳ Khmer Đỏ một cách công tâm
và minh bạch để trả lại tất cả sự thật cho lịch sử.
Trong mấy thế kỷ qua, quá khứ hai dân
tộc Khmer và Việt Nam đã có những tang thương đổ vỡ nhưng họ lại phải
cùng sống với nhau trên một vùng đất định mệnh. Và những thù hận trong
quá khứ vẫn âm ỉ đến mức đã trở thành Một Lời Nguyền rất bất hạnh cho cả
hai phía. Đã đến lúc phải cùng nhau giải lời nguyền ấy.
Hiện tại, cả hai dân tộc cùng rất nghèo,
cùng ở cuối nguồn con sông Mekong, đang cùng là nạn nhân của một trận
chiến môi sinh thế kỷ: do chuỗi những con đập thượng nguồn từ Trung Quốc
xuống tới Lào, do kế hoạch vĩ mô đổi dòng lấy nước từ con sông Mekong
của Thái Lan, rồi nạn ô nhiễm do khai thác khoáng sản bừa bãi, cộng thêm
với tác động của thay đổi khí hậu đưa tới lũ lụt và hạn hán. Hậu quả sẽ
là hai vùng châu thổ Tonle Sap và châu thổ Đồng Bằng Sông Cửu Long đang
trước nguy cơ chết dần.
Gần đây thôi, trong một phạm vi nhỏ hẹp
nhưng tích cực là các tổ chức môi sinh Việt Nam như Việt Ecology
Foundation, Vietnam River Network đã có những bước đầu nối kết với 5 tổ
chức môi sinh NGOs/ phi chính phủ của Cambodia, liên kết dưới chung một
tên River Coalition in Cambodia (RCC), và trong bối cảnh mở rộng một hợp
tác vùng: Save the Mekong Coalition (StM). Từ những bước khởi đầu ấy,
hai dân tộc Khmer và Việt Nam sẽ cùng chia xẻ trách nhiệm và hướng tới
một tương lai thịnh vượng chung. Đó cũng chính là nỗ lực hàn gắn vết
thương lịch sử giữa hai quốc gia, như một hoá giải Lời Nguyền giữa hai
dân tộc Cambodia và Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét