Không
ai có quyền viết sử Việt Nam ngoài chính dân tộc Việt Nam đang chịu
đựng dưới ách độc tài CS. Con đường có thể còn xa nhưng là con đường
chính sử. Chuyến xe có thể phải chậm vì chạy bằng máu của chính mình
nhưng là chuyến xe tự chủ, không nô lệ cho bất cứ một ngoại bang nào.
*
Từ hậu bán thế kỷ 19 đến nay, có bao nhiêu cuộc chiến, trong đó các bên đã đổ máu, diễn ra trên đất nước Việt Nam?
Câu trả lời tùy thuộc vào người bạn hỏi là ai.
Nếu bạn hỏi một sử gia người Mỹ có thể ông hay bà sẽ trả lời, Chiến
tranh Việt Nam (Second Indochina War hay Vietnam War) là cuộc chiến
tranh chống CS bành trướng xuống vùng Đông Nam Á bắt đầu từ ngày 1 tháng
11, 1955 khi Nhóm Cố Vấn Quân Sự Hoa Kỳ (U.S. Military Assistance
Advisory Group) được thành lập tại Sài Gòn và chấm dứt khi Thượng sĩ Max
Beilke, người lính tác chiến cuối cùng bước lên chiếc C-130 tại phi
trường Tân Sơn Nhất để về quê anh ở Minnesota ngày 29 tháng 3, 1973.
Đối với các sử gia Mỹ, cuộc xung đột quân sự tại Việt Nam là xung đột
giữa Mỹ một bên và CSVN một bên. Việt Nam Cộng Hòa chỉ là một phần phụ
thuộc vào Mỹ.
Nếu bạn hỏi Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng CSVN, ông ta sẽ trả lời cuộc chiến “chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa, thời
kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa CS trên toàn lãnh thổ Việt Nam chính thức
bắt đầu vào tháng Giêng, 1930 tại Cửu Long, Hương Cảng và chấm dứt vào
sáng 30 tháng Tư, 1975.”
Đối với Nguyễn Phú Trọng, chính bí thư thứ nhất đảng Lao Động (CS) Lê Duẩn, trong tác phẩm Dưới Lá Cờ Vẻ Vang Của Đảng
đã xác định cuộc chiến từ sau 1954 đến 1975 là chiến tranh của đảng
Cộng Sản. Trong diễn văn đọc tại Sài Gòn đầu tháng 5, 1975 Lê Duẩn khẳng
định “Vinh quang này thuộc về đảng Lao Động Việt Nam quang vinh, người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.”
Lê Duẩn không che dấu mục đích của đảng CSVN từ khi thành lập vào năm
1930 cho đến nay, tuy khác nhau về chiến lược của mỗi thời kỳ và hoạt
động dưới nhiều tên gọi nhưng hoàn toàn nhất quán về tư tưởng và mục
đích chính trị: Chiếm Việt Nam bằng bạo lực và cai trị Việt Nam bằng sắt
máu.
Tuy nhiên, nếu bạn tìm được cách vào tù để hỏi Trần Huỳnh Duy Thức có
thể anh sẽ trả lời khác. Cuộc chiến giành độc lập và tự do cho dân tộc
Việt Nam bắt đầu vào ngày 1 tháng 9, 1858, khi quân Pháp dưới quyền Đô
Đốc Charles Rigault de Genouilly tấn công Đà Nẵng chính thức mở đầu cuộc
chiến tranh vì độc lập tự do và cuộc chiến đó vẫn còn đang tiếp diễn
cho đến hôm nay.
Người viết tin anh Trần Huỳnh Duy Thức trả lời như thế, bởi vì trong Con đường Việt Nam, anh khẳng định
“sẽ không có sự độc lập nếu không có tự do. Và sẽ không có độc lập
dân tộc nếu không có độc lập cá nhân. Điều này là chân lý.”
Đúng vậy, độc lập cá nhân có quan hệ hổ tương và nhân quả với độc lập
dân tộc và do đó, cuộc chiến chống Thực Dân Pháp và cuộc đấu tranh chống
độc tài CS là một cuộc vận động vì độc lập, tự chủ, dân chủ, tự do liên
tục của lịch sử dân tộc Việt Nam.
Đó là con đường đầy máu nhuộm, đầy hy sinh nhưng rạng ngời chính nghĩa.
Bộ máy tuyên truyền của đảng CS nhuộm đỏ nhận thức người dân Việt Nam
bằng lý luận chỉ có đảng CSVN mới là đảng duy nhất thật sự mang lại độc
lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam.
Không phải.
Đừng quên rằng, bảy mươi mốt năm trước khi đảng CSVN thành lập năm 1930,
con đường chiến đấu vì độc lập, tự do của toàn dân tộc Việt đã bắt đầu.
Bắt đầu với máu của Đô Đốc Lê Đình Lý bị trọng thương ở Đà Nẵng, bằng
thanh gươm của Tổng Đốc Võ Duy Ninh tự sát sau khi thành Gia Định thất
thủ, được tiếp tục lót bằng sự hy sinh của Nguyễn Tri Phương, Hoàng
Diệu, Trương Công Định, Thiên Hộ Dương, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu
Huân, Phan Đình Phùng, Tôn Thất Thiệp, Tôn Thất Đạm, Nguyễn Duy Hiệu,
Tống Duy Tân, Đinh Công Tráng, Hoàng Hoa Thám và vô số anh hùng dân tộc
khác.
Đừng quên rằng, bốn mươi năm trước khi Hồ Chí Minh đặt chân trở lại Việt
Nam lần đầu năm 1941, các tư tưởng dân chủ khai phóng của Jean-Jacques
Rousseau, Montesquieu, Voltaire, Duy Tân Nhật Bản đã được các nhà cách
mạng Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp và các nhà cách mạng của phong trào
Duy Tân truyền bá khắp ba miền. Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục do các
nhà tân học miền Bắc như Lương Văn Can, Đào Nguyên Phổ đề xướng được
đông đảo đồng bào ủng hộ. Phong trào Đông Du do cụ Phan Bội Châu kêu gọi
đã thúc giục hàng trăm người Việt yêu nước như Lương Ngọc Quyến, Hoàng
Trọng Mậu lên đường sang Nhật theo học tại các trường đại học quân sự
Nhật.
Đừng quên rằng, hai mươi năm trước khi đảng CSVN ra đời đã có rất nhiều
đảng phái chính trị chống thực dân Pháp được thành lập như Việt Nam
Quang Phục Hội do cụ Phan Bội Châu lãnh đạo, đảng Lập Hiến của nhà cách
mạng Bùi Quang Chiêu, Thiên Địa Hội của Phan Xích Long, Việt Nam Quốc
Dân Đảng do nhà cách mạng Nguyễn Thái Học lãnh đạo. Các tổ chức cách
mạng đó có khác nhau về phương pháp thực hiện nhưng đều đặt cơ sở trên
nền tảng dân tộc và hướng tới một chế độ Cộng hòa. Hai nhà cách mạng
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh chỉ khác nhau về đường lối tiến hành
cách mạng chứ không khác nhau về mục đích và thể chế chính trị sau khi
cách mạng dân tộc thành công. Ngay từ thời điểm đó, hai cụ Phan cũng đã
khẳng định chế độ Cộng Hòa là con đường thời đại và là chế độ mang lại
tự do, dân chủ và thịnh vượng cho dân tộc Việt Nam. Cương lĩnh của Việt
Nam Quang Phục Hội do cụ Phan Bội Châu lãnh đạo vạch rõ mục tiêu của
cách mạng là “đánh đuổi thực dân Pháp giành lại nước Việt Nam độc lập, thành lập Cộng Hòa Dân Quốc Việt Nam.”
Đừng quên rằng, chín mươi năm trước khi Tạp chí Cộng Sản ra đời 1955,
mấy mươi tờ báo đã được phát hành khắp nước như Gia Định Báo (1865)
Tiếng Dân (1876), Nông Cổ Mín Đàm (1901), Đông Dương Tạp Chí (1913),
Nam Phong Tạp Chí (1917), An Nam Tạp Chí (1926), Phụ Nữ Tân Văn (1929),
Tiểu Thuyết Thứ Bảy (1934) và nhiều báo Pháp Ngữ. Dù khác nhau lập
trường chính trị, lề lối điều hành nhưng tất cả đều nhằm thúc đẩy tiến
trình khai dân trí tại Việt Nam.
Đừng quên rằng, năm 1945, theo tài liệu chính thức của đảng CSVN, tổng
số đảng viên CS chỉ vào khoảng năm ngàn người trong khi con số người
Việt yêu nước bị tù đày trên Côn Đảo qua nhiều thời kỳ, đã lên đến hai
trăm ngàn người. Điều đó cho thấy, dù số lượng đảng viên CS có tăng dần,
đại đa số những thế hệ Việt Nam chống Pháp là những người không Cộng
Sản. Bức ảnh bi thương ba chiếc đầu Đặng Đình Nhân, Nguyễn Trị Bình và
Nguyễn Văn Cốc đựng trong rọ sau khi bị chém ngày 8 tháng 7 năm 1908
trong vụ Hà Thành Đầu Độc là một trong vô số bằng chứng hùng hồn truyền
thống yêu nước của dân tộc Việt Nam.
Nhưng tại sao CS thắng?
CS thắng chỉ vì họ không từ chối bất cứ một thủ đoạn nào dù bất nhân đến
bao nhiêu, không hề tính toán cân nhắc phải chết hay phải giết chết bao
nhiêu người, miễn là đạt mục đích CS hóa Việt Nam. Song song đó, đảng
CS áp dụng một chính sách tuyên truyền tẩy não, lợi dụng lòng yêu nước,
bưng bít thông tin một cách tinh vi và tàn nhẫn nhất trong lịch sử loài
người.
Một trong những ông tổ tuyên truyền thời hiện đại là Joseph Goebbels
cũng đã phải bái phục bộ máy giết người và hệ thống tuyên truyền CS.
Trong diễn văn khá dài đọc trước đại hội đảng Quốc Xã vào tháng Chín,
1935, Joseph Goebbels phân tích chủ trương tuyên truyền CS “bắt đầu với nguyên tắc cứu cánh biện minh cho phương tiện”, và tố cáo đó là “sự giả dối và vu khống, khủng bố con người và quần chúng, trộm cắp và đốt phá, đình công, phá hoại, gián điệp…” Tuyên truyền CS, theo Goebbels nhằm “ám sát cá nhân, ám sát con tin, giết người tập thể là các phương pháp được CS ưa thích để loại bỏ đối kháng…”
Joseph Goebbels nghiên cứu và tố cáo chính sách tuyên truyền tẩy não,
trấn áp, khủng bố CS nhưng trong thực tế y đã áp dụng hầu hết các biện
pháp CS với một mức độ dã man không kém.
Các đảng phái quốc gia Việt Nam không làm được điều đó. Họ nhân ái quá.
Họ Việt Nam tính quá. Chính vì lòng nhân ái và Việt Nam tính đó mà phần
đông những nhà cách mạng độc lập và dân chủ đã chết, không chỉ dưới máy
chém thực dân mà còn do CS thủ tiêu như Đức Huỳnh Giáo Chủ, Trương Tử
Anh, Phạm Quỳnh, Khái Hưng, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Bùi Quang
Chiêu, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Thế Nghiệp v.v..
Và hôm nay, một trăm năm mươi chín năm từ buổi sáng ngày 1 tháng 9, 1858
ở Đà Nẵng những Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Ngọc Như
Quỳnh, Trần Thị Nga v.v... lại tiếp tục con đường Phạm Hồng Thái, Lương
Ngọc Quyến, Tôn Thất Thiệp đã đi, để viết nên trang sử độc lập tự do cho
mỗi người Việt Nam và cho dân tộc Việt Nam.
Không ai có quyền viết sử Việt Nam ngoài chính dân tộc Việt Nam đang
chịu đựng dưới ách độc tài CS. Con đường có thể còn xa nhưng là con
đường chính sử. Chuyến xe có thể phải chậm vì chạy bằng máu của chính
mình nhưng là chuyến xe tự chủ, không nô lệ cho bất cứ một ngoại bang
nào.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét