Cố tổng thống Việt Nam Cộng Hòa,
Ngô Đình Diệm.
54 năm về trước, vào những giờ
phút này tính mạng của hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đang bị “ngàn cân
treo sợi chỉ”. Những tính toán và quyết định sai
lầm của lãnh đạo Hoa Kỳ, cùng với sự tiếp tay của thành phần chống đối ông Diệm
ông Nhu tại miền Nam, đã đưa đến cái chết bi thương của hai ông và nền Đệ Nhất
Cộng Hoà.
Biến cố 1 tháng 11 năm 1963 là điểm
ngoặc đưa đến bao nhiêu bất ổn chính trị, để rồi chiến tranh Việt Nam leo thang
và, 12 năm sau, kết thúc như một định mệnh không thể đảo ngược.
42 năm, gần hai thế hệ sinh ra và
lớn lên sau cuộc chiến. Nhưng những hậu quả mà chiến tranh để lại cho đến nay vẫn
còn quá to tát. Một phần vì những vết thương quá sâu, về mặt tinh thần, nên vẫn
chưa lành, đối với mọi bên. Phần khác vì bởi các lý do chính trị, nhất là khi
không bên nào muốn thừa nhận vai trò và trách nhiệm của mình về hậu quả của cuộc
chiến này.
Trong khi đó nhà cầm quyền hiện tại
vẫn chủ trương kiểm soát toàn bộ “sự thật lịch sử” đối với những gì xảy ra trước,
trong và sau cuộc chiến này.
Đâu là sự thật lịch sử? Trên thực
tế, không có một sự thật lịch sử, dù là lịch sử về chiến tranh Việt Nam hay,
nói chung, bất cứ một cuộc chiến hay biến cố chính trị lớn nào. Tính đa diện,
phức tạp và vô cùng chia rẽ của cuộc chiến Việt Nam cho thấy tất cả mọi nhận
xét, dù khách quan và thành tâm cách mấy, cũng chỉ là cách nhìn nhận vấn đề ở
các góc cạnh khác nhau, ngay cả từ phía cùng chiến tuyến.
Điển hình là phim tài liệu mới nhất
về cuộc chiến Việt Nam được đạo diễn tiếng tăm Ken Burns (và Lynn Novick) thực
hiện, mất hơn 10 năm, gồm 10 tập kéo dài 18 tiếng đồng hồ. Tập phim tài liệu
này được giới truyền thông chính mạch tại Hoa Kỳ và ngoài Mỹ phê bình một cách
tích cực. Các báo, tạp chí, truyền hình lớn và nhiều ảnh hưởng như The New York
Times, Washing Post, Guardian, Economist, Newsweek, Vanity Fair, PBS, CNN
v.v..., tuy có phê bình một số thiếu sót hay sai sót, nhưng phần lớn khen ngợi
công trình đồ sộ của Ken Burns: chi tiết, kỹ lưỡng, chuyên nghiệp, độc đáo, với
bao nhiêu phỏng vấn nguyên thuỷ của các nhân vật trực tiếp tham gia cuộc chiến
từ mọi phía cũng như bao nhiêu hình ảnh, phim ảnh và âm nhạc được sáng tác liên
quan đến cuộc chiến này.
Về phía Việt Nam, thì có lẽ nhiều
người sinh ra hoặc lớn lên sau khi cuộc chiến chấm dứt mong muốn được tìm hiểu
một cách đầy đủ, nhất là trong bộ phim tài liệu này Novick đã nỗ lực về Việt
Nam phỏng vấn những người trong cuộc. Thế hệ trẻ hình như chưa đánh giá mà chỉ
muốn được xem rồi nhận xét sau.
Tuy nhiên nhận xét sơ khởi của thế
hệ đi trước thì không tích cực chút nào. Một số người cho rằng bộ phim tài liệu
này không phản ảnh trung thực lịch sử cuộc chiến và bối cảnh đưa đến chiến
tranh Việt Nam.
Trong số những người lên tiếng
cho Việt Nam Cộng Hoà, giáo sư Nguyễn Tiến Hưng, tác giả của Hồ Sơ Mật Dinh Độc
Lập, Khi Đồng Minh Tháo Chạy và Khi Đồng Minh Nhảy Vào, đã phân tích chi tiết về
những khuyết điểm, thành kiến, thiếu sót và sai sót của bộ phim tài liệu này
trong bài “Viết về bộ phim The Vietnam War” [1]. Nhưng tiến sĩ Hưng cũng chỉ mới
xem có năm tập đầu, chưa xem hết, cho nên những thắc mắc ông nêu ra như tại sao
có chiến tranh Việt Nam, trách nhiệm của người Mỹ trong cuộc đảo chánh và hạ
sát ông Ngô Đình Diệm v.v... có được trình bày đầy đủ và nghiêm chỉnh chứ không
thiên vị và thành kiến không thì chính ông cũng chưa rõ!
Trong khi đó thì có nguồn tin bán
chính thức cho rằng lãnh đạo hàng đầu tại Hà Nội rất không hài lòng về bộ phim
này [2]. Họ cách chức vài viên chức trong Bộ Ngoại Giao đã phụ giúp dàn dựng
các cuộc phỏng vấn cho bộ phim. Họ tức tối vì bộ phim phơi bày cuộc thảm sát Mậu
Thân năm 1968, những tranh chấp trong hàng ngũ lãnh đạo chóp bu tại Hà Nội
trong thời chiến, hay sự đối xử tồi tệ của bên thắng cuộc đối với người dân miền
Nam khi chiến tranh chấm dứt v.v...
Tựu chung chiến tranh nào cũng chết
chóc, thảm khốc, mất mát và tan thương. Chiến tranh Việt Nam thì khốc liệt bội
phần. Trong vòng hơn 10 năm, khoảng một triệu người chết trong cả hai miền Nam
Bắc, trong đó 58 ngàn lính Mỹ, và hàng triệu người khác bị thương tích. Tất cả
các diễn biến này, qua hình ảnh chết chóc hay hàng triệu tấn bom rơi, được
trình chiếu hàng ngày trên truyền hình Mỹ và khắp thế giới, điều mà không xảy
ra trong Thế Chiến Hai hay trước đó. Chính những hình ảnh đó là một trong những
nguyên nhân mà chiến tranh buột phải kết thúc bằng mọi giá.
Tuy cuộc chiến Việt Nam vô cùng
phức tạp và gây nhiều tranh cãi, mục tiêu chiến lược của các bên tham gia tương
đối đơn giản dễ hiểu.
Mục tiêu của Hoa Kỳ, và đồng
minh, khuynh hướng đại diện cho thế giới tự do/tư bản, trong cuộc chiến này là
để ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản tại Đông Nam Á (mặc dầu ngay cả lý
thuyết gia hàng đầu của thuyết ngăn chặn George Kennan không đánh giá cao vai
trò chiến lược của Việt Nam trong chủ trương ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản toàn
cầu).
Mục tiêu của miền Nam, trong nền
Đệ Nhất lẫn Đệ Nhị Cộng Hoà, là phải ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản để toàn đất
nước không bị nhuộm đỏ. Những người quốc gia từng hiểu biết và kinh nghiệm
xương máu với cộng sản, nhất là trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, không tin
rằng chủ nghĩa này mang lại sự phát triển cần thiết cho đất nước và dân tộc, nếu
không phải là thảm hoạ.
Mục tiêu của miền Bắc, về mặt
tuyên truyền, là để “chống Mỹ cứu nước”, độc lập và thống nhất dân tộc, nhưng
thực tế họ đã chứng minh là đệ tử trung thành của cộng sản quốc tế, thi hành
nghiêm chỉnh các chỉ thị từ đàn anh như Liên Sô và Trung Cộng trong việc đối đầu
với khối tự do, bằng chính xương máu của đồng bào họ. Độc lập và thống nhất dân
tộc, theo tư duy của lãnh đạo miền Bắc, cũng chỉ là mục tiêu hay phương tiện phụ.
Mục tiêu chính, quan trọng hơn, là phải tiến nhanh tiến mạnh trên con đường xã
hội chủ nghĩa và sau đó là cộng sản chủ nghĩa. Những gì xảy ra sau 30 tháng Tư
năm 1975 cho đến khi Đổi Mới chứng minh điều này.
Chỉ có mỗi ông Ngô Đình Diệm là
người có tầm lãnh đạo quốc gia lớn, có tư duy độc lập thật sự, và có tầm nhìn
chiến lược và mục tiêu vì đất nước dân tộc Việt Nam. Dù có những lỗi lầm chiến
lược và chiến thuật - điều mà không một vị lãnh tụ nào tránh khỏi dù tài giỏi
và kiên cường đến mấy khi đối diện với bao thử thách khắc nghiệt của thời cuộc
- cuộc đời dấn thân xuyên suốt của ông Diệm đã chứng minh điều này. Ông Diệm
không hề muốn Hoa Kỳ đưa quân vào Việt Nam. Lãnh đạo Hoa Kỳ tuy có lúc không
tin tưởng khả năng ông Diệm có thể vượt qua bao thử thách cam go, và tuy có lúc
bất bình với ông, nhưng họ không hề coi thường ông. Ông luôn có suy nghĩ độc lập,
đặt mình ngang hàng với Hoa Kỳ, và không bao giờ nghe theo lời khuyên của Hoa Kỳ
nếu nó đi ngược lại quyền lợi của dân tộc Việt Nam. Hoa Kỳ đứng đằng sau cuộc đảo
chánh ông Diệm vì họ không thuyết phục được ông trong các vấn đề chiến lược mà
lại quá chủ quan về sức mạnh quân sự của mình [3].
Trong cuốn “Nền tảng Chung”
(Common Ground), cố Thủ tướng Úc Malcolm Fraser cũng xác định là ông đã rút ra
được một số bài học quan trọng về cuộc chiến Việt Nam. Đọc hồi ký của cựu Bộ
trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara xuất bản năm 1996, với tựa đề “Nhìn lại:
Bi kịch và Bài học của Việt Nam” (In Retrospect: The Tragedy and Lessons of
Vietnam), ông Fraser đặc biệt chú tâm đến cung cách đối xử của Hoa Kỳ đối với
nguyên thủ quốc gia miền Nam Việt Nam Ngô Đình Diệm [4].
Ông McNamara kể chi tiết về cuộc
đảo chánh và ám sát ông Ngô Đình Diệm mà vào thời điểm đó chỉ là tin đồn là có
bàn tay của Hoa Kỳ hoặc CIA nhúng vào. Ám sát là ý kiến của nhân viên Nhà Trắng.
Khi quyết định xảy ra, cả ông McNamara và Ngoại trưởng Hoa Kỳ Dean Rusk không
có mặt ở Nhà Trắng. Có gợi ý cho rằng Tổng thống John F Kennedy đưa ra quyết định
này ở sân chơi golf. Quyết định này của Tổng Thống Kennedy không tham khảo ý kiến
của Rusk hay McNamara. Mật tin được truyền đi qua Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam và
mật vụ CIA tại Sài Gòn. Đại sứ Hoa Kỳ Henry Cabot Lodge sau khi nhận mật tin,
đi tìm một số tướng Việt Nam được ủy quyền lật đổ ông Diệm. Ông Diệm và ông Nhu
bị ám sát. Ông Đại sứ ngạc nhiên vì Hoa Kỳ chỉ muốn ông Diệm bị lật đổ, không
phải bị giết như thế! Ông Đại sứ được phe đảo chánh cho hay rằng ông Diệm phải
bị giết đi vì ông là người duy nhất có được sự ủng hộ đáng kể tại Việt Nam. Sau
cuộc đảo chánh, ông McNamara đặt câu hỏi “Có ai đủ khả năng/tốt hơn để thay thế
ông Diệm?”
Những ai đã đọc hồi ký của
McNamara, kể cả những người từng là tướng lãnh và lãnh đạo chính trị Việt Nam Cộng
Hòa thời đó, có thấy điều gì bất ổn với sự kiện kể trên? Riêng ông Fraser cảm
thấy cung cách hành xử của Hoa Kỳ hoàn toàn sai trái. Thứ nhất, McNamara qua cuốn
hồi ký không hề phê bình tính cách Hoa Kỳ loại bỏ ông Diệm. Theo ông Fraser thì
ông Diệm là người đứng đầu chính phủ và là nguyên thủ của một quốc gia mà Hoa Kỳ
đang là đồng minh. Quyết định loại bỏ một đồng minh trong hoàn cảnh như thế là
cực kỳ bất thường. Nó chỉ chứng tỏ tính độc đoán loại bỏ tất cả các quyền lợi
khác ngoài mình. Thứ hai, một nước mà có thể thực hiện những hành động như thế,
qua sự nhận thức về các sự kiện mang tính hệ trọng và bao quát như thế, là điều
làm cho ông Fraser ngờ vực về khả năng và quyền lực của Hoa Kỳ.
Nhìn lại lịch sử cận đại và hiện
đại Việt Nam, Nguyễn Ánh đánh bại nhà Nguyễn Tây Sơn để thống nhất đất nước để
rồi sáu thập niên sau lại mất độc lập. Nhưng lần này thì không phải Bắc thuộc
mà là Tây thuộc, gần một trăm năm. Nguyên do chính yếu là vì giới lãnh đạo Việt
Nam cực kỳ bảo thủ, giáo điều, tư tưởng lệ thuộc phương Bắc một cách vô thức,
nên không hề đặt nặng cải cách, canh tân. Không cách tân thì tụt hậu, nghèo
túng, thua kém, rồi không có sức mạnh để đối phó với nạn ngoại xâm luôn chờ chực
nước nhà. Và một khi đã mất độc lập thì làm sao canh tân!?
Quan sát tình hình Việt Nam hơn
200 năm qua, đặc biệt là ngày hôm nay, tất cả những vấn đề nhức nhối, những thử
thách lớn lao vẫn còn đó. Nó còn có dấu hiệu trầm trọng hơn, nhất là thảm hoạ của
môi trường sống. Không có môi trường sống lành mạnh ổn vững thì mọi kế hoạch
cho tương lai sẽ bất định.
Ngay vào thời điểm lãnh đạo miền
Bắc âm mưu xâm chiếm miền Nam, lãnh đạo miền Nam đã có tầm nhìn và kế hoạch dài
hạn vì quyền lợi của đất nước.
Trên 200 trang trong “Chính Đề Việt
Nam”, Tùng Phong Ngô Đình Nhu đã biện luận sâu sắc về những vấn đề quan yếu đối
diện với Việt Nam trong thời đại của mình. Một, canh tân đất nước để phát triển,
nhưng phải biết “trụ mà không trụ”, để bảo đảm sự phát triển không ngừng. Hai,
để có được sự phát triển đó, vị trí trụ vào phải là vị trí dân tộc, chứ không
phải vào lý thuyết Cộng Sản, và không phải dựa vào vị trí của Trung Cộng hay
các thế lực ngoại bang nào. Ba, mối đe dọa triền miên của dân tộc Việt Nam, từ
xưa đến nay, là Trung Quốc/Cộng [5].
Mối quốc nguy mà thế hệ ông Nhu
đã quan tâm thời đó cũng là điều mà lãnh đạo quốc gia trước thời bà Trưng bà
Triệu mãi cho đến hôm nay đều quan tâm.
Nên nhớ thời ông Ngô Đình Diệm,
dân số Trung Cộng chỉ là 800 triệu. Sự bành trướng của Trung Cộng, cho dầu ở mức
ôn hoà nhất, như nhu cầu dân sinh thôi, đã là khủng khiếp rồi. Sau gần 60 năm,
dân số đã tăng lên gần 600 triệu dân nữa. Giới lãnh đạo Trung Cộng ngày nay có
những toan tính thâm độc hơn, với tham vọng xâm chiếm toàn Biển Đông và trở
thành cường quốc số một với quân đội hùng mạnh hơn cả Hoa Kỳ, thì Trung Cộng lại
càng là mối đe doạ tối nguy và thường trực của Việt Nam hơn nữa. Các viện Khổng
Tử mà Trung Cộng đã ra công xây dựng trong nhiều năm qua trên khắp thế giới và
bàn tay nối dài của Trung Cộng để gây ảnh hưởng lên cộng đồng người Hoa ở khắp
nơi, hay các nỗ lực xâm nhập tạo ảnh hưởng lên các sinh hoạt chính trị dòng
chính, hay các chính sách ngoại giao của các nước sở tại, như Úc, chẳng hạn,
cho thấy giấc mộng Trung Hoa quả là ác mộng Việt Nam.
Ông Ngô Đình Nhu đã nhận định rất
rõ bài toán và giải pháp của Việt Nam thời đó, và đã kêu gọi lãnh đạo miền Bắc
hãy kịp thời nhìn ra được nhu cầu tiến hoá của dân tộc để không trụ đóng vào
phương tiện cộng sản nữa, nhất là vào phía Trung Cộng.
Lãnh đạo miền Bắc, tất nhiên,
hoàn toàn không chia sẻ quan điểm của ông Nhu.
Lãnh đạo Hoa Kỳ, và phần lớn tướng
lãnh của Việt Nam Cộng Hoà, cũng không chia sẻ các quan điểm này.
Tất cả đều muốn biểu dương sức mạnh
bắp thịt, xem ai mạnh hơn, to gan hơn.
Kết quả là hai ông Diệm và ông
Nhu bị sát hại.
Vài lời kết
Lãnh đạo cộng sản tự bản chất
không hề đề cao vai trò trí tuệ trong việc trị nước hay giữ nước. Họ đã từng đề
cao “hồng hơn chuyên”, “yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa” v.v... Qua các hành động
của họ từ xưa đến nay, họ muốn người dân và đảng viên trung thành với đảng hơn
với nước. Họ tiếp tục dùng thành quả chiến tranh để đề cao hoặc bảo vệ tính
chính nghĩa của họ bấy lâu nay. Họ không chỉ say sưa trong chiến thắng mà còn sử
dụng nó để biện minh cho tất cả tội ác của họ trong chiến tranh và về sau, từ Mậu
Thân cho đến Đại Lộ Kinh Hoàng cho đến tù cải tạo khắp nước khi chiến tranh chấm
dứt. Kết quả của những chính sách vô cùng sai lầm này đã làm kiệt quệ sức sống
của dân tộc, làm thui chột các thế hệ trẻ lẽ ra là rường cột nước nhà, và làm mất
đi bao nhiêu cơ hội để xây dựng lại con người và đất nước.
Trong khi đó, vấn đề cấp bách
ngày hôm nay, cũng như của hai thế kỷ qua, là sự phát triển bền vững của Việt
Nam trước hiểm họa ngày càng to lớn của Trung Quốc. Không phải phát triển kinh
tế bằng mọi giá, mà là phát triển bền vững, trong đó môi trường xã hội và con
người là yếu tố then chốt. Một khi người dân Việt Nam có được tư duy đúng đắn
và tích cực thì cái gì cũng làm được cả, và đó mới là sức mạnh thật sự. Sự
thành công của người Việt trên khắp thế giới về mặt trí tuệ và chuyên môn cho
thấy khả năng và sức mạnh thật sự của dân tộc mình. Nếu có những lãnh đạo quốc
gia tài giỏi và đức độ để huy động và khai dụng tiềm năng dân tộc cho quyền lợi
quốc gia và quốc dân thì con đường phát triển đất nước sẽ thênh thang.
Để xây dựng cái mới, chúng ta phải
can đảm dứt khoát đoạn tuyệt cái cũ. Phải can đảm nhìn ra cái dở cái sai cái hư
cái thối của mình. Đừng tự mê và tự sướng với những cái quá lỗi thời, hủ lậu,
thuộc viện bảo tàng, nhất là mặt tư tưởng. Nỗ lực nghiên cứu những giá trị văn
minh nhân bản của các quốc gia tiên tiến hàng đầu có thể là bước đầu cho một sự
thay đổi bền vững và cần thiết cho đất nước và dân tộc Việt Nam hôm nay.
Nhưng điều căn bản và quan trọng
trước tiên là phải tìm hiểu lịch sử để học hỏi, rút tỉa kinh nghiệm. Muốn học hỏi
rốt ráo thì phải từ bỏ lối suy nghĩ một chiều, độc tôn độc đoán, và biết tôn trọng
sự thật, không bóp méo nó. Tôn thờ sự thật và nỗ lực đi tìm nó sẽ giúp con người
tránh lập lại những đau thương mất mát từ sự thiển cận, thù hận, tham lam, dối
trá và hèn hạ mà quyền lực tạo ra.
Qua bao nhiêu bài học lịch sử như
thế, điều đáng nói là nhóm lãnh đạo Việt Nam hôm nay vẫn trụ đóng vào Trung Cộng.
Tổ quốc dân tộc chẳng là gì cả đối với họ. Quyền lực và quyền lợi là tất cả
ngày hôm nay, trên mọi thứ.
(Úc Châu, 01/11/2017)
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Tiến Hưng, “Viết về bộ
phim The Vietnam War”, Người Việt, 27/09/2017.
2. Jeff Stein, “Vietnam War: New
Ken Burns Documentary Dismisses The Origins Of The Futile, Disastrous
Conflict”, tạp chí Newsweek, 9/17/2017.
3. Phạm Văn Lưu, “Lịch Sử Chính
Trị Cận Đại Việt Nam - Quyển I: Ngô Đình Diệm và Bang Giao Việt Mỹ 1954-1963”,
Centre For Vietnamese Studies, 2016.
4. Malcolm Fraser, “Common
Ground”, Viking, 2002, trang 95 đến 97.
5. Tùng Phong – Ngô Đình Nhu,
“Chính Đề Việt Nam”, Sài Gòn, Nhà Xuất Bản Đồng Nai, 1964.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét