Thứ Hai, 3 tháng 4, 2017

Biển Đông bày ra một cuộc kiểm tra thực tế cho Mỹ




Tác giả: Jamil Anderlini-Fiancial Times

 
Những người biểu tình trước Lãnh Sự quán TQ ở Philippines, chống lại sự thân thiện của TT Philippine, ông Duterte. Ảnh: © Getty


Bắc Kinh đã giành được bạn bè và ảnh hưởng để hậu thuẫn những yêu sách lãnh thổ của họ

Khi Toà Trọng tài Thường trực The Hague ra phán quyết hồi tháng 7 chống lại yêu sách chủ quyền lãnh thổ rộng lớn của Trung Quốc ở biển Đông, chiến lược của Bắc Kinh để thống trị sân sau của mình dường như đang trong tình trạng hỗn loạn. Các chính trị gia ở Washington đã hời hợt tìm cách che giấu nỗi mừng thắng lợi của mình.

Tuy nhiên, khi nhìn lại, đó là đỉnh cao — hay đáy vực, tùy thuộc vào quan điểm mỗi người — trong cuộc tranh giành quyền thống trị trên tuyến đường biển quan yếu này mà hàng năm có khoảng 5 tỉ đô la giao thương đi ngang qua.

Kể từ đó, Hoa Kỳ đã phải chịu hết bước thụt lùi này tới bước thụt lùi khác trong nỗ lực nhằm tập hợp các nước có các yêu sách đối chọi trong khu vực, trong lúc Trung Quốc đẩy mạnh việc quân sự hóa và xây dựng các đảo nhân tạo cho phép họ kiểm soát lãnh thổ một cách hiệu quả. Ngay cả một số quan chức Mỹ cũng thừa nhận trong tư riêng rằng, Trung Quốc đã giành chiến thắng trong cuộc chiến giành biển Đông mà không cần bắn phát đạn nào. Trong lịch sử của sự suy thoái của Mỹ, màn diễn này chắc chắn sẽ lù lù hiện ra.

Mao Trạch Đông, một du kích nông dân đã cai trị Trung Quốc trong 27 năm, từng mô tả Mỹ là một “con cọp giấy”: hùng hổ bề ngoài nhưng hoàn toàn vô hại. Bi kịch tuyến đường biển này đã tạo thêm uy tín cho những người ở Bắc Kinh đi theo quan điểm này hiện nay.

Phần lớn là do lỗi của Barack Obama, cựu tổng thống Hoa Kỳ và Hillary Clinton, ngoại trưởng của ông. Tổng thống Donald Trump và chính quyền của ông ta đang có nguy cơ trượt dốc nhanh hơn về uy tín của Mỹ.

Từ năm 2011, chính quyền của Tổng thống Obama đã thừa nhận sự trỗi dậy của Trung Quốc như là một thách thức lớn đối với sự thống trị của Hoa Kỳ trên thế giới và không che dấu việc tìm cách “chuyển trục” từ cuộc chiến tranh tàn khốc ở Trung Đông sang triển khai sức mạnh ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Điều này càng có ý nghĩa hơn khi cuộc cách mạng dầu đá phiến tại nước Mỹ làm giảm đi sự phụ thuộc vào dầu Ả Rập.

Nhưng, đến thời điểm “chuyển trục” được lặng lẽ gọi lại là “cân bằng” sau nhiều năm không hành động, trở nên rõ ràng rằng chính sách này đã là một thảm hoạ hoàn toàn. Không những nó làm Bắc Kinh thù địch sâu sắc hơn và tạo cho đảng cộng sản cầm quyền một cái cớ để mở rộng các yêu sách chủ quyền hung hăng của họ, mà còn làm cho các đồng minh trong khu vực hết sức nghi ngờ khả năng và quyết tâm của Mỹ.

Trung Quốc và các đồng minh đã cẩn thận lưu ý việc Nga chiếm lấy Crimea và xâm lấn miền đông Ukraine cũng như việc Obama nhanh chóng bỏ “lằn vạch đỏ” đối với việc sử dụng vũ khí hoá học ở Syria.

Từ những điều này và nhiều điều khác được hiểu như sự chịu thua, Bắc Kinh đã đẩy nhanh việc xây dựng đảo và quân sự hoá ở biển Đông. Trong ba năm qua, họ đã đắp thêm hơn 3.200 héc-ta đất — gần gấp 10 lần diện tích công viên Hyde ở London — trên bảy rạng san hô / mỏm đá và lắp đặt đường băng, cảng, nhà chứa máy bay, hệ thống radar và vũ khí.

Điều này được kết hợp với một nỗ lực ngoại giao mạnh mẽ và rất thành công trong năm qua trong việc thuyết phục các nước láng giềng tránh xa Washington và ôm lấy Bắc Kinh. Ví dụ điển hình nhất là Philippines, thuộc địa cũ của Mỹ, nơi mà Tổng thống Rodrigo Duterte đã “chào tạm biệt” Mỹ và gần như đã tuyên thệ trung thành với Trung Quốc.

Ngoài Đài Loan, hòn đảo tự trị mà Trung Quốc luôn cho là lãnh thổ của họ, tất cả những bên yêu sách khác đối với một phần của biển Đông — Malaysia, Việt Nam và Brunei — đều đã nhích lại gần với Bắc Kinh hơn từ khi có phán quyết của trọng tài hồi tháng 7.

Ông Trump bị các cuộc tranh luận và các cuộc chiến Twitter ở Mỹ làm phân tâm quá nhiều, không chú ý đến hoặc không hiểu được tình hình đang diễn biến phức tạp ở Biển Đông. Những người được ông đề cử, như Rex Tillerson làm ngoại trưởng, chỉ làm trầm trọng thêm di sản thiếu cương quyết gần đây của Hoa Kỳ qua việc nói cứng rắn về việc sẽ kềm chế chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc rồi sau đó lại quay về lối cũ.

Việc liên tục nhấn mạnh rằng Mỹ muốn duy trì tự do đi lại ở biển Đông là một điều không thật trung thực cho lắm, bởi vì điều mà Mỹ thật sự muốn nói là quyền tự do cho tàu bè và máy bay do thám của mình thực hiện các hoạt động theo dõi dọc theo bờ biển Trung Hoa đại lục.

Đó là điều mà Hoa Kỳ sẽ không bao giờ chấp nhận và bây giờ nên chuẩn bị đàm phán. Hy vọng hão huyền rằng Trung Quốc sẽ tháo dỡ các đảo nhân tạo của mình và quay trở lại hiện trạng trước đây là không đứng vững được.

Washington cần thừa nhận thực tế về ưu thế quân sự vượt trội của Trung Quốc trên tuyến đường biển này và tìm cách thích ứng, bao gồm tất cả các bên có quan tâm trong khu vực, điều đó tránh được việc trượt dốc tới, dẫn tới chiến tranh.

Điều này chắc chắn sẽ là một chiến thắng về địa chiến lược cho Trung Quốc, nhưng cũng có thể cho phép Hoa Kỳ và các nước khác thuyết phục Bắc Kinh rằng, quan điểm thời thế kỷ 19 của họ về bành trướng lãnh thổ và về quan hệ cường quốc lớn đã lỗi thời và không còn hợp pháp.

Khi đưa ra lập luận chống lại việc Trung Quốc men tới chủ nghĩa đế quốc mới, Mỹ có thể nhắc nhở các lãnh đạo nước này những lời Mao nói: “Chủ nghĩa đế quốc sẽ kéo dài không lâu vì nó luôn làm điều ác”, và bọn đế quốc, cuối cùng luôn trở thành “những con cọp chết”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét