Kiểu tư duy giả định Trung Quốc và Triều Tiên là đồng minh;
Bắc Kinh lo ngại bất ổn trên bán đảo và kéo theo là mối nguy về dòng người tị nạn;
Trung Quốc cần Triều Tiên làm vùng đệm ngăn cách với Hàn Quốc – một đồng minh của
Mỹ. Những giả định này đã đúng trong 20 năm qua, nhưng đã có những thay đổi
quan trọng trong quan điểm của Bắc Kinh sau quãng thời gian này.
Giới chức Mỹ từ lâu đã thừa nhận công thức mà Mao Trạch Đông
đưa ra đối với quan hệ Trung-Triều: Hai nước tựa như “môi và răng”. Trung Quốc
là đối tác cung cấp năng lượng, lương thực chủ chốt và là thị trường trung gian
để Triều Tiên duy trì kết nối giao thương với bên ngoài. Đó là lý do mà nhiều
nhiệm kỳ chính phủ Mỹ luôn tìm cách thúc ép Trung Quốc thể hiện vai trò to lớn
hơn nhằm phi hạt nhân hóa trên bán đảo Triều Tiên. Tổng thống Donald Trump cũng
đi theo lôgích này, vừa kêu gọi sự trợ giúp từ Trung Quốc, đồng thời đe dọa trừng
phạt nếu Bắc Kinh không hành động quyết liệt hơn. Cũng theo cách tiếp cận này,
giới hoạch định chính sách Mỹ từng nhận định nếu Triều Tiên sụp đổ hoặc bị kéo
vào cuộc chiến với Mỹ, Trung Quốc sẽ ra tay trợ giúp, không để Bình Nhưỡng tan
rã, thậm chí sẽ cho triển khai lực lượng quân sự ở dọc tuyến biên giới nhằm
ngăn chặn cuộc khủng hoảng người tị nạn tràn vào Trung Quốc.
Nhưng cách tư duy này đã lỗi thờ. Trong hai thập kỷ qua,
quan hệ Trung-Triều xấu đi nhiều nếu nhìn sâu vào thực tế thay vì chỉ đánh giá
bề ngoài. Trung Quốc đã chán nản với lối hành xử của Triều Tiên, tái khẳng định
lợi ích ở bán đảo Triều Tiên. Trung Quốc ngày nay không còn hết lòng bằng mọi
giá đối với với sự tồn tại của Bình Nhưỡng. Trong trường hợp xảy ra xung đột
hay chế độ sụp đổ, các lực lượng của Trung Quốc sẽ can dự, nhưng ở mức độ không
như kỳ vọng trước đó,và mục đích không phải là bảo vệ đồng minh, mà là bảo vệ lợi
ích cho riêng mình.
Trong vòng xoáy khiêu khích và leo thang căng thẳng, để hiểu
được Trung Quốc sẽ thực sự sát cánh với Triều Tiên ra sao không thể chỉ dựa vào
một số bài học thuyết giảng. Tháng 7 vừa qua, Triều Tiên thử thành công tên lửa
đạn đạo liên lục địa có tầm bắn vươn tới bờ Tây nước Mỹ. Đến tháng 9, Bình Nhưỡng
thử bom nhiệt hạch (bom H), với mức công phá lớn gấp 17 lần trái bom Mỹ ném xuống
Hiroshima. Cuộc khẩu chiến của phía Mỹ lại bùng lên. Trump chế giễu nhà lãnh đạo
Kim Jong-un là “người tên lửa bé nhỏ”, tuyên bố “mọi giải pháp quân sự đang được
đặt sẵn trên bàn”. Để tăng sức nặng cho lời đe dọa này, Mỹ điều chuyển máy bay
ném bom tầm xa, tàu chiến áp sát Triều Tiên.
Khả năng bất ổn thực sự trên bán đảo đồng nghĩa với việc Mỹ
cần làm mới cách tư duy về động cơ hành động của Trung Quốc. Trong trường hợp
xuất hiện leo thang, Bắc Kinh nhiều khả năng sẽ tìm cách giành quyền kiểm soát
địa hình chủ chốt, cụ thể là các địa điểm, cơ sở hạt nhân của Triều Tiên. Sự hiện
diện quy mô lớn của binh lính Mỹ và Trung Quốc trên bán đảo Triều Tiên sẽ làm
tăng nguy cơ chiến tranh toàn diện Mỹ-Trung, điều không bên nào mong muốn. Vậy
nhưng nếu đặt trong bối cảnh quan hệ Bắc Kinh với Bình Nhưỡng xấu đi và Trung
Quốc cũng có lo ngại riêng đối với chương trình hạt nhân của Triều Tiên, thì dường
như Mỹ và Trung Quốc bất ngờ tìm được điểm chung.
Cập nhật tình hình
Theo lý luận uyên bác truyền thống, Trung Quốc không muốn đẩy
Triều Tiên đến ngưỡng phi hạt nhân hóa. Kiểu tư duy này dựa trên ba giả định:
Trung Quốc và Triều Tiên là đồng minh; Bắc Kinh lo ngại bất ổn trên bán đảo và
kéo theo là mối nguy về dòng người tị nạn; Trung Quốc cần Triều Tiên làm vùng đệm
ngăn cách với Hàn Quốc – một đồng minh của Mỹ. Những giả định này đã đúng trong
20 năm qua, nhưng đã có những thay đổi quan trọng trong quan điểm của Bắc Kinh
sau quãng thời gian này.
Quan hệ Trung-Triều từ lâu đã mang đặc tính phụ thuộc chặt
chẽ lẫn nhau như là định mệnh. Chỉ một năm sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa ra đời, Bắc Kinh đã trợ giúp nước láng giềng cộng sản trong cuộc Chiến
tranh Triều Tiên. Để chống lại mối nguy “gây hấn” chống Bình Nhưỡng, hai nước
đã ký Hiệp ước phòng thủ chung năm 1961. Khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt và Triều
Tiên mất đi nhà bảo trợ Liên Xô, Bắc Kinh nhảy vào thế chỗ, cung cấp viện trợ
kinh tế và quân sự cho Triều Tiên. Nhưng ngày nay, thật khó để mô tả Trung Quốc
và Triều Tiên là bạn bè của nhau, chứ chưa nói đến đồng minh. Chủ tịch Tập Cận
Bình chưa bao giờ gặp Kim Jong-un và theo giới học giả có khả năng tiếp cận giới
chức trong chính phủ hoặc Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình xem thường
Chính quyền Bình Nhưỡng. Thậm chí trong giới ngoại giao Trung Quốc xuất hiện
tin đồn đại sứ Trung Quốc tại Bình Nhưỡng cũng chưa bao giờ tiếp xúc với Kim
Jong-un. Tập Cận Bình từng công khai tuyên bố Hiệp ước năm 1961 sẽ không được
áp dụng nếu Triều Tiên khơi mào xung đột, một tiêu chí rất dễ xảy ra. Giới học
giả, quân sự, hoạch định chính sách Trung Quốc hầu như không còn đề cập đến hiệp
ước này, hay việc Bắc Kinh có trách nhiệm bảo vệ Triều Tiên. Quan hệ Trung-Triều
xấu đến mức, nhiều sĩ quan thuộc Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) cho
biết Bắc Kinh và Bình Nhưỡng có thể sẽ không đứng cùng một chiến tuyến nếu xảy
ra chiến tranh Triều Tiên lần hai. Quân đội Trung Quốc có thể can thiệp, nhưng
không phải là bảo vệ chế độ Bình Nhưỡng, mà là tạo lập một cục diện mới trên
bán đảo Triều Tiên hậu Kim Jong-un theo hướng có lợi cho Bắc Kinh.
Những chuyển dịch chính sách này diễn ra trong bối cảnh
Trung Quốc ngày một tự tin hơn về tiềm lực và ảnh hưởng tại khu vực. Tư duy của
Trung Quốc giờ đây không còn bị chi phối bởi lo sợ bất ổn tại Triều Tiên và khủng
hoảng người tị nạn đi kèm. Hoạch định chiến lược trước đây của PLA coi trọng việc
đóng chốt biên giới hoặc lập vùng đệm để ngăn cách người tị nạn. Trong nhiều thập
kỷ, đây là mục tiêu mà tất cả các tập đoàn quân PLA muốn đạt được. Nhưng sau 20
năm, quân đội Trung Quốc đã trở thành lực lượng tối tân nhờ hiện đại hóa vũ khí
trang bị và thay đổi bộ máy tổ chức. Trung Quốc giờ đây có khả năng cùng lúc kiểm
soát bất ổn ở biên giới và tiến hành các chiến dịch quân sự lớn trên bán đảo Triều
Tiên.
Nếu Chính quyền Kim Jong-un sụp đổ, lực lượng vũ trang với
quy mô 50.000 quân ở các tỉnh Đông Bắc sẽ có trách nhiệm kiểm soát bảo vệ biên
giới, ngăn chặn dòng người tị nạn Triều Tiên đổ sang, để PLA rảnh tay thực thi
các chiến dịch phía Nam. Trung Quốc hiện có “ba tập đoàn quân” thuộc Vùng tác
chiến phía Bắc giáp ranh Triều Tiên, 1 trong 5 vùng tác chiến trong cơ cấu của
PLA. Mỗi tập đoàn quân có quy mô dao động từ 45.000-60.000 quân, không kể các lữ
đoàn đặc nhiệm, lữ đoàn không quân, bộ binh. Trong trường hợp cần thiết, Trung
Quốc còn có thể điều động lực lượng từ Vùng tác chiến trung tâm cùng lực lượng
không quân. Khi tái cơ cấu các đại quân khu thành các “vùng tác chiến” vào
tháng 2/2016, PLA đã đưa tỉnh Sơn Đông vào Vùng tác chiến trung tâm, dù tỉnh
này tách biệt về địa lý với các khu vực còn lại của vùng tác chiến. Nhiều khả
năng giới lãnh đạo quân đội muốn có tuyến tiếp cận bằng đường biển giúp triển
khai lực lượng tới Triều Tiên. Hai thập kỷ hiện đại hóa và cải cách quân đội
cùng với ưu thế về địa lý giúp quân đội Trung Quốc đạt tới khả năng nhanh chóng
chiếm đóng Triều Tiên trước khi lực lượng tăng cường của Mỹ kịp triển khai tới
Hàn Quốc để chuẩn bị tấn công Triều Tiên.
Trong quá khứ, việc Trung Quốc gắn kết với nước láng giềng một
phần là bởi Triều Tiên là vùng đệm giữa Trung Quốc với Hàn Quốc – nước theo chế
độ tư bản rồi chuyển lên dân chủ và từng thù địch với Bắc Kinh. Nhưng quyền lực
và ảnh hưởng ngày một lớn của Trung Quốc đã xóa đi động cơ này. Bắc Kinh có thể
từng lo sợ kịch bản về một bán đảo Triều Tiên thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của
Seoul, nhưng giờ mối lo này không còn. Một số học giả nổi tiếng của Trung Quốc
đã bắt đầu cổ vũ cho ý tưởng bỏ mặc Bình Nhưỡng để đổi lấy mối quan hệ tốt đẹp
hơn với Seoul. Tập Cận Bình thậm chí còn bất ngờ lên tiếng ủng hộ thống nhất
Triều Tiên trong dài hạn, với điều kiện thông qua tiến trình hòa bình tiệm tiến.
Phát biểu tại Đại học Quốc gia Seoul tháng 7/2014, Tập Cận Bình khẳng định
“Trung Quốc hy vọng hai miền Triều Tiên sẽ cải thiện quan hệ; Trung Quốc ủng hộ
việc hiện thực hóa thống nhất hòa bình và độc lập trên bán đảo Triều Tiên”.
Thế nhưng những toan tính của Trung Quốc về Hàn Quốc chưa hẳn
đã thay đổi toàn bộ. Động lực thôi thúc thống nhất hai miền Triều Tiên đạt đỉnh
vào giai đoạn 2013-2015, khi Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-hye ưu tiên tăng cường
quan hệ song phương với Bắc Kinh. Nhưng sau vụ Bình Nhưỡng thử hạt nhân hồi đầu
năm 2016, Seoul quay sang củng cố liên minh với Washington và đồng ý triển khai
Hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD), khiến giới chức
Trung Quốc lo ngại rằng chiến thuật “tấn công quyến rũ” không đủ sức hấp dẫn. Mối
lo chủ yếu của Bắc Kinh chính là viễn cảnh Mỹ tiếp tục đồn trú quân sự trên bán
đảo Triều Tiên thống nhất. Dù vẫn ủng hộ thống nhất hai miền Triều Tiên, nhưng
Trung Quốc cũng muốn định hình các điều khoản. Cách tiếp cận của Bắc Kinh sẽ phụ
thuộc vào hình thái quan hệ song phương với Seoul.
Trung Quốc thực sự muốn gì?
Khi tính toán về mức giá phải trả cho cuộc chiến tranh trên bán
đảo Triều Tiên, giới hoạch định Mỹ lâu nay vẫn cho rằng Trung Quốc sẽ làm mọi
chuyện trong khả năng cho phép nhằm tránh bị cuốn vào cuộc xung đột trực diện với
quân đội Mỹ và Hàn Quốc. Trong trường hợp Trung Quốc phải can dự, giới chức Mỹ
tiên liệu Bắc Kinh sẽ chỉ dừng lại ở việc kiểm soát người tị nạn gần biên giới
hoặc ủng hộ Chính quyền Kim Jong-un từ xa, qua trợ giúp chính trị, kinh tế và
quân sự. Tựu chung lại, Washington luôn tin rằng vai trò của Trung Quốc sẽ
không ảnh hưởng nhiều đến các chiến dịch quân sự của Mỹ.
Nhưng tính toán này không còn an toàn nữa. Thay vào đó,
Washington phải nhận thấy Trung Quốc sẽ can thiệp quy mô và cả trên phương diện
quân sự tại bán đảo Triều Tiên một khi Mỹ có ý định di chuyển lực lượng về phía
Bắc. Điều này không có nghĩa Bắc Kinh sẽ đánh đòn phủ đầu. Trung Quốc sẽ vẫn nỗ
lực tìm cách ngăn hai bên lao vào chiến sự. Trong trường hợp nhận thấy xung đột
chỉ trong giới hạn ở các đòn đánh bằng tên lửa, không kích, Trung Quốc nhiều khả
năng sẽ đứng ngoài. Nhưng nếu thất bại trong việc hối thúc Mỹ không leo thang
xung đột thành chiến tranh lớn, Bắc Kinh sẽ không ngần ngại điều lực lượng quân
sự quy mô tới Triều Tiên để bảo vệ lợi ích của mình trong chiến sự và ở thời hậu
chiến.
Nhân tố chính khiến Trung Quốc có khuynh hướng hành động quyết
đoán trong cuộc chiến tranh Triều Tiên là lo ngại của Bắc Kinh về kho hạt nhân
của Chính quyền Kim Jong-un. Đây chính là lợi ích buộc lực lượng quân sự Trung
Quốc can thiệp sớm để giành quyền kiểm soát các cơ sở hạt nhân. Nói như Thẩm
Chí Hoa, chuyên gia nghiên cứu về Triều Tiên, “nếu bom hạt nhân phát nổ, ai sẽ
là nạn nhân của rò rỉ, phát tán hạt nhân? Sẽ chỉ là Trung Quốc và Hàn Quốc. Nhật
Bản được ngăn cách bởi biển Hoa Đông, còn Mỹ thì được che chở bởi Thái Bình
Dương”.
Trung Quốc có vị trí địa lý thích hợp để giải quyết mối đe dọa.
Theo nghiên cứu của Sáng kiến de dọa hạt nhân, một tổ chức phi lợi nhuận của Mỹ,
nếu tiến 100km vào sâu bên trong lãnh thổ Triều Tiên tính từ đường biên giới, lực
lượng quân sự Trung Quốc sẽ kiểm soát được vùng lãnh thổ bao gồm toàn bộ các cơ
sở hạt nhân và 2/3 các căn cứ tên lửa thuộc diện ưu tiên cao nhất của Bình Nhưỡng.
Với giới lãnh đạo Bắc Kinh, mục tiêu là tránh phát tán chất độc hạt nhân và họ
kỳ vọng sự hiện diện của binh sĩ Trung Quốc ở những cơ sở này sẽ ngăn ngừa được
một loạt những viễn cảnh tồi tệ: Trung Quốc có thể ngăn chặn tai nạn ở những điểm
này, răn đe không để Mỹ, Hàn Quốc hay Nhật Bản tấn công chúng và phong tỏa Triều
Tiên sử dụng hay phát tán kho vũ khí này.
Bắc Kinh cũng quan ngại một Triều Tiên thống nhất có thể sẽ
được thừa hưởng tiềm lực hạt nhân của Bình Nhưỡng. Giới nghiên cứu Trung Quốc bị
thuyết phục bởi luận điểm Hàn Quốc muốn sở hữu vũ khí hạt nhân và Mỹ ủng hộ tham
vọng này của Seoul. Họ e ngại, trong trường hợp thể chế Kim Jong-un sụp đổ,
quân đội Hàn Quốc sẽ chiếm giữ các cơ sở, kho nhiên liệu hạt nhân ngay cả khi Mỹ
đồng ý hay phản đối. Dù lo ngại này có phần thái quá, ý tưởng sở hữu hạt nhân
ngày càng được thảo luận nhiều ở Seoul. Đảng đối lập chính tại Hàn Quốc đã kêu
gọi Mỹ tái triển khai vũ khí hạt nhân chiến thuật tới bán đảo – một lựa chọn mà
Chính quyền Trump do dự loại trừ.
Ngoài quan ngại hạt nhân, sự thay đổi quan điểm của Trung Quốc
một phần là sự quyết đoán địa chính trị ngày một lớn của Bắc Kinh dưới thời Tập
Cận Bình. Khác với những người tiền nhiệm, Tập Cận Bình không ngần ngại đưa ra
các tham vọng cường quốc đối với Trung Quốc. Trong bài phát biểu khai mạc Đại hội
XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc kéo dài ba tiếng rưỡi hồi tháng 10, Tập Cận Bình
đã 26 lần nhắc lại các cụm từ “cường quốc”, “nước lớn”. Điều này hoàn toàn trái
ngược với các quan điểm trước đây, ví như Đặng Tiểu Bình đề cao phương châm “giấu
mình chờ thời”. Dưới thời Tập Cận Bình, Trung Quốc đang đảm nhận vai trò của một
cường quốc. Tập Cận Bình cũng hối thúc cải cách quân đội, để bảo đảm PLA có thể
chiến đấu và chiến thắng trong mọi cuộc chiến tranh trong tương lai.
Quan trọng hơn, chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên sẽ là liều
thuốc thử cho sự cạnh tranh ảnh hưởng tại khu vực giữa Mỹ và Trung Quốc. Thực tế,
lo ngại ảnh hưởng trong tương lai của Washington là lý do thuyết phục nhất lý
giải tại sao Bắc Kinh không sẵn lòng gây sức ép với Bình Nhưỡng tới ngưỡng mà
Chính quyền Trump đòi hỏi. Trung Quốc sẽ không mạo hiểm bất ổn hay chiến tranh
một khi nhận thấy kết cục cuối cùng sẽ là vai trò lớn hơn của Mỹ tại khu vực.
Trong tình huống này, Trung Quốc không còn cảm thấy thoải mái đứng nhìn. Như một
quan chức PLA từng đặt câu hỏi: “Tại sao Mỹ lại hiện diện ở đó, còn chúng tôi
thì không?”. Chỉ riêng lý do này thôi, giới học giả và quân sự Trung Quốc luôn
cho rằng Bắc Kinh sẽ cần phải can dự trong bất kỳ một biến cố nào xảy ra trên
bán đảo.
Hợp tác cùng nhau
Điểm cốt yếu chính là việc Washington phải hiểu rằng bất kỳ
một xung đột nào trên bán đảo Triều Tiên lôi cuốn các chiến dịch quân sự quy mô
lớn của Mỹ đều sẽ kích hoạt sự can dự quân sự đáng kể từ Bắc Kinh. Điều này
không có nghĩa là Mỹ sẽ phải tìm cách răn đe Trung Quốc: Một phản ứng như vậy
chắc chắn sẽ thất bại và làm tăng nguy cơ đối đầu quân sự trực diện giữa hai
bên. Các bước đi làm phương hại quan hệ Mỹ-Trung cũng sẽ cản trở các nỗ lực ứng
phó hay điều phối trước và trong khủng hoảng, tăng nguy cơ tính toán sai lầm.
Thay vào đó, Washington phải nhận thấy rằng một số hình thức
can thiệp của Trung Quốc sẽ thực sự có lợi đối với Mỹ, đặc biệt là về chống phổ
biến vũ khí hạt nhân. Quan trọng nhất, giới chức Mỹ nên hiểu rõ lực lượng quân
sự Trung Quốc chắc chắn sẽ tiến đến các khu vực hạt nhân ở Triều Tiên trước Mỹ,
do ưu thế về địa lý, cơ cấu tổ chức và nguồn binh lực. Nhưng đây lại là điểm
tích cực, vì giúp tiết giảm nguy cơ chế độ bên bờ sụp đổ ở Bình Nhưỡng sử dụng
vũ khí hạt nhân chống lại Mỹ hay đồng minh của Mỹ. Trung Quốc cũng có thể đảm
nhận vai trò hữu ích trong xác định các địa điểm hạt nhân (với sự trợ giúp của
tình báo Mỹ), từ đó bảo vệ và chịu trách nhiệm quản lý nhiên liệu hạt nhân tại
các cơ sở này, trước khi mời các chuyên gia quốc tế tới để phá hủy vũ khí. Cùng
thời điểm, Mỹ có thể đảm nhận vai trò dẫn dắt những nỗ lực đa phương nhằm ngăn
chặn việc chuyển nhiên liệu hạt nhân từ Triều Tiên bằng đường biển, đường không
và đường bộ, tiếp đến là lưu giữ an toàn và tiêu hủy.
Trên hết, giới hoạch định chính sách Mỹ phải thay đổi cách
đánh giá trong cách xem xét can dự của Trung Quốc, theo hướng xem đây là cơ hội
thay vì cản trở các chiến dịch của Mỹ. Đơn cử như Lục quân và Hải quân đánh bộ
Mỹ sẽ phải chấp nhận một thực tế: Dù việc bảo đảm các cơ sở hạt nhân là nhiệm vụ
then chốt nhất ở Triều Tiên trong trường hợp xảy ra xung đột, họ sẽ phải thay đổi
các kế hoạch một khi lực lượng quân sự Trung Quốc là người đến trước.
Ở cấp độ chính trị, Washington cần sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm
trong cải thiện điều phối với Trung Quốc ở thời bình. Nó có thể bao gồm các cuộc
tham vấn song phương với Bắc Kinh, ngay cả khi việc làm này đi ngược lại mong
muốn của Hàn Quốc, do Seoul không muốn Mỹ, Trung Quốc xích lại gần nhau. Đương
nhiên, chia sẻ thông tin tình báo, lập kế hoạch chung, huấn luyện chung cho các
kịch bản ứng phó là điểm bất thường, vì Mỹ đồng thời sẽ phải can dự cạnh tranh
chiến lược trong dài hạn với Trung Quốc. Bộ Quốc phòng Mỹ cũng xem Trung Quốc
là 1 trong 5 mối đe dọa toàn cầu lớn nhất với Mỹ, cùng với Iran, Triều Tiên,
Nga và các tổ chức cực đoan. Thế nhưng các mối đe dọa chiến lược và mối nguy hiện
hữu trước mắt thường đưa các đối thủ xích lại gần nhau. Mối nguy Triều Tiên được
loại trừ, Mỹ sẽ có nhiều nguồn lực hơn để giải quyết những thách thức khác.
Đương nhiên, một nỗ lực như vậy đòi hỏi điều phối ở cấp độ rộng.
Trung Quốc từ lâu luôn phản đối can dự thảo luận với Mỹ về cách thức ứng xử
trong trường hợp nổ ra xung đột trên bán đảo Triều Tiên, hoặc là chế độ Bình
Nhưỡng sụp đổ. Nguyên do là Trung Quốc nghi ngờ toan tính của Mỹ, e ngại
Washington sẽ sử dụng các cuộc trao đổi này để phá hủy nỗ lực của Bắc Kinh muốn
giải quyết khủng hoảng hạt nhân bằng biện pháp hòa bình. Thế nhưng Trung Quốc
cũng cho thấy một quan điểm mềm mỏng hơn. Trong bài xã luận được đăng trên Tạp
chí trực tuyến Diễn đàn Đông Á hồi tháng 9 vừa qua, Giả Khánh Quốc, Giáo sư tại
Đại học Bắc Kinh cho rằng Trung Quốc nên hợp tác với Mỹ và Hàn Quốc, nhất là
trong các vấn đề còn để ngỏ liên quan đến kho vũ khí hạt nhân của Triều Tiên.
Giả Khánh Quốc viết: “Nguy cơ chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên ngày một lớn.
Khi chiến tranh là một khả năng thực tế, Trung Quốc cần chuẩn bị. Hiểu được điều
đó, Trung Quốc cần phải sẵn sàng tính đến các cuộc đàm phán với các nước liên
quan về các kế hoạch ứng phó”.
Nếu Bắc Kinh tiếp tục từ chối đề nghị cùng hợp tác,
Washington sẽ đơn phương xem xét các hình thức thông báo về kế hoạch hành động
của mình để giảm nguy cơ đụng độ bất ngờ. Mỹ thậm chí có thể cung cấp cho Trung
Quốc thông tin tình báo giúp PLA bảo vệ các cơ sở hạt nhân quan trọng nhất. Tiếp
theo, hai nước có thể sử dụng các cơ chế hợp tác an ninh hạt nhân dân sự đã được
thiết lập, như Trung tâm an ninh hạt nhân (CENS) Mỹ-Trung hay qua các tổ chức
khác như Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), để triển khai huấn luyện
kĩ thuật. Không một nước nào có thể sánh kịp Mỹ về kinh nghiệm tiêu hủy và bảo
vệ vũ khí hạt nhân. Trung Quốc dù có nhân lực chiếm giữ, kiểm soát các cơ sở hạt
nhân ở Triều Tiên, nhưng chưa thể đạt tới trình độ lưu giữ, vận chuyển và phá hủy
vũ khí, nhiên liệu hạt nhân an toàn. Chia sẻ thực tiễn sẽ giúp Trung Quốc xử lý
hiệu quả những gì tìm kiếm được tại những địa điểm này.
Mỗi chiến lược đều có mức giá phải trả. Phối hợp hay nhượng
bộ trước bước can dự của Trung Quốc trong kế hoạch ứng phó Triều Tiên gây ra một
số hiệu ứng ngược, mà những người phê phán có thể sớm chỉ ra. Trước hết, Hàn Quốc
kịch liệt phản đối ý tưởng để Trung Quốc can dự vào bán đảo, cao hơn là việc
binh sĩ Trung Quốc hiện diện ở Triều Tiên. Bước đi điều phối nỗ lực với Trung
Quốc cũng gây hại tới quan hệ của Mỹ với Seoul, dù lợi ích của việc kiểm soát mối
đe dọa từ Triều Tiên với mức giá thấp là điều cần được tính tới.
Điểm lo ngại tiềm tàng hơn cả chính là việc can dự của Trung
Quốc tại Triều Tiên sẽ khiến Mỹ mất đi ảnh hưởng trên bán đảo. Ở cấp độ cơ bản
nhất, Trung Quốc sẽ hành động không phải là nhằm hỗ trợ Mỹ, mà là bảo đảm rằng
một Triều Tiên thống nhất sẽ không còn sự hiện diện quân sự của Mỹ. Nhưng sau
cùng đó không phải là một kết cục tồi. Việc chấm dứt đồn trú quân sự thường trực
trên báo đảo Triều Tiên là một mức giá phù hợp với Mỹ, để bảo đảm rằng chiến
tranh Triều Tiên một lần nữa sẽ có được kết cục tốt nhất.
***
Oriana
Skylar Mastro là phó giáo sư nghiên cứu về An ninh tại Trường nghiên
cứu ngoại giao Edmund A. Walsh, đại học Georgetown. Bài viết được đăng
trên Foreign Affairs.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét