Thứ Bảy, 30 tháng 12, 2017

Tại sao Trung Quốc sẽ không cứu Triều Tiên



Kiểu tư duy giả định Trung Quốc và Triều Tiên là đồng minh; Bắc Kinh lo ngại bất ổn trên bán đảo và kéo theo là mối nguy về dòng người tị nạn; Trung Quốc cần Triều Tiên làm vùng đệm ngăn cách với Hàn Quốc – một đồng minh của Mỹ. Những giả định này đã đúng trong 20 năm qua, nhưng đã có những thay đổi quan trọng trong quan điểm của Bắc Kinh sau quãng thời gian này.

Giới chức Mỹ từ lâu đã thừa nhận công thức mà Mao Trạch Đông đưa ra đối với quan hệ Trung-Triều: Hai nước tựa như “môi và răng”. Trung Quốc là đối tác cung cấp năng lượng, lương thực chủ chốt và là thị trường trung gian để Triều Tiên duy trì kết nối giao thương với bên ngoài. Đó là lý do mà nhiều nhiệm kỳ chính phủ Mỹ luôn tìm cách thúc ép Trung Quốc thể hiện vai trò to lớn hơn nhằm phi hạt nhân hóa trên bán đảo Triều Tiên. Tổng thống Donald Trump cũng đi theo lôgích này, vừa kêu gọi sự trợ giúp từ Trung Quốc, đồng thời đe dọa trừng phạt nếu Bắc Kinh không hành động quyết liệt hơn. Cũng theo cách tiếp cận này, giới hoạch định chính sách Mỹ từng nhận định nếu Triều Tiên sụp đổ hoặc bị kéo vào cuộc chiến với Mỹ, Trung Quốc sẽ ra tay trợ giúp, không để Bình Nhưỡng tan rã, thậm chí sẽ cho triển khai lực lượng quân sự ở dọc tuyến biên giới nhằm ngăn chặn cuộc khủng hoảng người tị nạn tràn vào Trung Quốc.


Nhưng cách tư duy này đã lỗi thờ. Trong hai thập kỷ qua, quan hệ Trung-Triều xấu đi nhiều nếu nhìn sâu vào thực tế thay vì chỉ đánh giá bề ngoài. Trung Quốc đã chán nản với lối hành xử của Triều Tiên, tái khẳng định lợi ích ở bán đảo Triều Tiên. Trung Quốc ngày nay không còn hết lòng bằng mọi giá đối với với sự tồn tại của Bình Nhưỡng. Trong trường hợp xảy ra xung đột hay chế độ sụp đổ, các lực lượng của Trung Quốc sẽ can dự, nhưng ở mức độ không như kỳ vọng trước đó,và mục đích không phải là bảo vệ đồng minh, mà là bảo vệ lợi ích cho riêng mình.

Trong vòng xoáy khiêu khích và leo thang căng thẳng, để hiểu được Trung Quốc sẽ thực sự sát cánh với Triều Tiên ra sao không thể chỉ dựa vào một số bài học thuyết giảng. Tháng 7 vừa qua, Triều Tiên thử thành công tên lửa đạn đạo liên lục địa có tầm bắn vươn tới bờ Tây nước Mỹ. Đến tháng 9, Bình Nhưỡng thử bom nhiệt hạch (bom H), với mức công phá lớn gấp 17 lần trái bom Mỹ ném xuống Hiroshima. Cuộc khẩu chiến của phía Mỹ lại bùng lên. Trump chế giễu nhà lãnh đạo Kim Jong-un là “người tên lửa bé nhỏ”, tuyên bố “mọi giải pháp quân sự đang được đặt sẵn trên bàn”. Để tăng sức nặng cho lời đe dọa này, Mỹ điều chuyển máy bay ném bom tầm xa, tàu chiến áp sát Triều Tiên.

Khả năng bất ổn thực sự trên bán đảo đồng nghĩa với việc Mỹ cần làm mới cách tư duy về động cơ hành động của Trung Quốc. Trong trường hợp xuất hiện leo thang, Bắc Kinh nhiều khả năng sẽ tìm cách giành quyền kiểm soát địa hình chủ chốt, cụ thể là các địa điểm, cơ sở hạt nhân của Triều Tiên. Sự hiện diện quy mô lớn của binh lính Mỹ và Trung Quốc trên bán đảo Triều Tiên sẽ làm tăng nguy cơ chiến tranh toàn diện Mỹ-Trung, điều không bên nào mong muốn. Vậy nhưng nếu đặt trong bối cảnh quan hệ Bắc Kinh với Bình Nhưỡng xấu đi và Trung Quốc cũng có lo ngại riêng đối với chương trình hạt nhân của Triều Tiên, thì dường như Mỹ và Trung Quốc bất ngờ tìm được điểm chung.

Cập nhật tình hình

Theo lý luận uyên bác truyền thống, Trung Quốc không muốn đẩy Triều Tiên đến ngưỡng phi hạt nhân hóa. Kiểu tư duy này dựa trên ba giả định: Trung Quốc và Triều Tiên là đồng minh; Bắc Kinh lo ngại bất ổn trên bán đảo và kéo theo là mối nguy về dòng người tị nạn; Trung Quốc cần Triều Tiên làm vùng đệm ngăn cách với Hàn Quốc – một đồng minh của Mỹ. Những giả định này đã đúng trong 20 năm qua, nhưng đã có những thay đổi quan trọng trong quan điểm của Bắc Kinh sau quãng thời gian này.

Quan hệ Trung-Triều từ lâu đã mang đặc tính phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau như là định mệnh. Chỉ một năm sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời, Bắc Kinh đã trợ giúp nước láng giềng cộng sản trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên. Để chống lại mối nguy “gây hấn” chống Bình Nhưỡng, hai nước đã ký Hiệp ước phòng thủ chung năm 1961. Khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt và Triều Tiên mất đi nhà bảo trợ Liên Xô, Bắc Kinh nhảy vào thế chỗ, cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự cho Triều Tiên. Nhưng ngày nay, thật khó để mô tả Trung Quốc và Triều Tiên là bạn bè của nhau, chứ chưa nói đến đồng minh. Chủ tịch Tập Cận Bình chưa bao giờ gặp Kim Jong-un và theo giới học giả có khả năng tiếp cận giới chức trong chính phủ hoặc Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình xem thường Chính quyền Bình Nhưỡng. Thậm chí trong giới ngoại giao Trung Quốc xuất hiện tin đồn đại sứ Trung Quốc tại Bình Nhưỡng cũng chưa bao giờ tiếp xúc với Kim Jong-un. Tập Cận Bình từng công khai tuyên bố Hiệp ước năm 1961 sẽ không được áp dụng nếu Triều Tiên khơi mào xung đột, một tiêu chí rất dễ xảy ra. Giới học giả, quân sự, hoạch định chính sách Trung Quốc hầu như không còn đề cập đến hiệp ước này, hay việc Bắc Kinh có trách nhiệm bảo vệ Triều Tiên. Quan hệ Trung-Triều xấu đến mức, nhiều sĩ quan thuộc Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) cho biết Bắc Kinh và Bình Nhưỡng có thể sẽ không đứng cùng một chiến tuyến nếu xảy ra chiến tranh Triều Tiên lần hai. Quân đội Trung Quốc có thể can thiệp, nhưng không phải là bảo vệ chế độ Bình Nhưỡng, mà là tạo lập một cục diện mới trên bán đảo Triều Tiên hậu Kim Jong-un theo hướng có lợi cho Bắc Kinh.

Những chuyển dịch chính sách này diễn ra trong bối cảnh Trung Quốc ngày một tự tin hơn về tiềm lực và ảnh hưởng tại khu vực. Tư duy của Trung Quốc giờ đây không còn bị chi phối bởi lo sợ bất ổn tại Triều Tiên và khủng hoảng người tị nạn đi kèm. Hoạch định chiến lược trước đây của PLA coi trọng việc đóng chốt biên giới hoặc lập vùng đệm để ngăn cách người tị nạn. Trong nhiều thập kỷ, đây là mục tiêu mà tất cả các tập đoàn quân PLA muốn đạt được. Nhưng sau 20 năm, quân đội Trung Quốc đã trở thành lực lượng tối tân nhờ hiện đại hóa vũ khí trang bị và thay đổi bộ máy tổ chức. Trung Quốc giờ đây có khả năng cùng lúc kiểm soát bất ổn ở biên giới và tiến hành các chiến dịch quân sự lớn trên bán đảo Triều Tiên.

Nếu Chính quyền Kim Jong-un sụp đổ, lực lượng vũ trang với quy mô 50.000 quân ở các tỉnh Đông Bắc sẽ có trách nhiệm kiểm soát bảo vệ biên giới, ngăn chặn dòng người tị nạn Triều Tiên đổ sang, để PLA rảnh tay thực thi các chiến dịch phía Nam. Trung Quốc hiện có “ba tập đoàn quân” thuộc Vùng tác chiến phía Bắc giáp ranh Triều Tiên, 1 trong 5 vùng tác chiến trong cơ cấu của PLA. Mỗi tập đoàn quân có quy mô dao động từ 45.000-60.000 quân, không kể các lữ đoàn đặc nhiệm, lữ đoàn không quân, bộ binh. Trong trường hợp cần thiết, Trung Quốc còn có thể điều động lực lượng từ Vùng tác chiến trung tâm cùng lực lượng không quân. Khi tái cơ cấu các đại quân khu thành các “vùng tác chiến” vào tháng 2/2016, PLA đã đưa tỉnh Sơn Đông vào Vùng tác chiến trung tâm, dù tỉnh này tách biệt về địa lý với các khu vực còn lại của vùng tác chiến. Nhiều khả năng giới lãnh đạo quân đội muốn có tuyến tiếp cận bằng đường biển giúp triển khai lực lượng tới Triều Tiên. Hai thập kỷ hiện đại hóa và cải cách quân đội cùng với ưu thế về địa lý giúp quân đội Trung Quốc đạt tới khả năng nhanh chóng chiếm đóng Triều Tiên trước khi lực lượng tăng cường của Mỹ kịp triển khai tới Hàn Quốc để chuẩn bị tấn công Triều Tiên.

Trong quá khứ, việc Trung Quốc gắn kết với nước láng giềng một phần là bởi Triều Tiên là vùng đệm giữa Trung Quốc với Hàn Quốc – nước theo chế độ tư bản rồi chuyển lên dân chủ và từng thù địch với Bắc Kinh. Nhưng quyền lực và ảnh hưởng ngày một lớn của Trung Quốc đã xóa đi động cơ này. Bắc Kinh có thể từng lo sợ kịch bản về một bán đảo Triều Tiên thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của Seoul, nhưng giờ mối lo này không còn. Một số học giả nổi tiếng của Trung Quốc đã bắt đầu cổ vũ cho ý tưởng bỏ mặc Bình Nhưỡng để đổi lấy mối quan hệ tốt đẹp hơn với Seoul. Tập Cận Bình thậm chí còn bất ngờ lên tiếng ủng hộ thống nhất Triều Tiên trong dài hạn, với điều kiện thông qua tiến trình hòa bình tiệm tiến. Phát biểu tại Đại học Quốc gia Seoul tháng 7/2014, Tập Cận Bình khẳng định “Trung Quốc hy vọng hai miền Triều Tiên sẽ cải thiện quan hệ; Trung Quốc ủng hộ việc hiện thực hóa thống nhất hòa bình và độc lập trên bán đảo Triều Tiên”.

Thế nhưng những toan tính của Trung Quốc về Hàn Quốc chưa hẳn đã thay đổi toàn bộ. Động lực thôi thúc thống nhất hai miền Triều Tiên đạt đỉnh vào giai đoạn 2013-2015, khi Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-hye ưu tiên tăng cường quan hệ song phương với Bắc Kinh. Nhưng sau vụ Bình Nhưỡng thử hạt nhân hồi đầu năm 2016, Seoul quay sang củng cố liên minh với Washington và đồng ý triển khai Hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD), khiến giới chức Trung Quốc lo ngại rằng chiến thuật “tấn công quyến rũ” không đủ sức hấp dẫn. Mối lo chủ yếu của Bắc Kinh chính là viễn cảnh Mỹ tiếp tục đồn trú quân sự trên bán đảo Triều Tiên thống nhất. Dù vẫn ủng hộ thống nhất hai miền Triều Tiên, nhưng Trung Quốc cũng muốn định hình các điều khoản. Cách tiếp cận của Bắc Kinh sẽ phụ thuộc vào hình thái quan hệ song phương với Seoul.

Trung Quốc thực sự muốn gì?

Khi tính toán về mức giá phải trả cho cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên, giới hoạch định Mỹ lâu nay vẫn cho rằng Trung Quốc sẽ làm mọi chuyện trong khả năng cho phép nhằm tránh bị cuốn vào cuộc xung đột trực diện với quân đội Mỹ và Hàn Quốc. Trong trường hợp Trung Quốc phải can dự, giới chức Mỹ tiên liệu Bắc Kinh sẽ chỉ dừng lại ở việc kiểm soát người tị nạn gần biên giới hoặc ủng hộ Chính quyền Kim Jong-un từ xa, qua trợ giúp chính trị, kinh tế và quân sự. Tựu chung lại, Washington luôn tin rằng vai trò của Trung Quốc sẽ không ảnh hưởng nhiều đến các chiến dịch quân sự của Mỹ.

Nhưng tính toán này không còn an toàn nữa. Thay vào đó, Washington phải nhận thấy Trung Quốc sẽ can thiệp quy mô và cả trên phương diện quân sự tại bán đảo Triều Tiên một khi Mỹ có ý định di chuyển lực lượng về phía Bắc. Điều này không có nghĩa Bắc Kinh sẽ đánh đòn phủ đầu. Trung Quốc sẽ vẫn nỗ lực tìm cách ngăn hai bên lao vào chiến sự. Trong trường hợp nhận thấy xung đột chỉ trong giới hạn ở các đòn đánh bằng tên lửa, không kích, Trung Quốc nhiều khả năng sẽ đứng ngoài. Nhưng nếu thất bại trong việc hối thúc Mỹ không leo thang xung đột thành chiến tranh lớn, Bắc Kinh sẽ không ngần ngại điều lực lượng quân sự quy mô tới Triều Tiên để bảo vệ lợi ích của mình trong chiến sự và ở thời hậu chiến.

Nhân tố chính khiến Trung Quốc có khuynh hướng hành động quyết đoán trong cuộc chiến tranh Triều Tiên là lo ngại của Bắc Kinh về kho hạt nhân của Chính quyền Kim Jong-un. Đây chính là lợi ích buộc lực lượng quân sự Trung Quốc can thiệp sớm để giành quyền kiểm soát các cơ sở hạt nhân. Nói như Thẩm Chí Hoa, chuyên gia nghiên cứu về Triều Tiên, “nếu bom hạt nhân phát nổ, ai sẽ là nạn nhân của rò rỉ, phát tán hạt nhân? Sẽ chỉ là Trung Quốc và Hàn Quốc. Nhật Bản được ngăn cách bởi biển Hoa Đông, còn Mỹ thì được che chở bởi Thái Bình Dương”.

Trung Quốc có vị trí địa lý thích hợp để giải quyết mối đe dọa. Theo nghiên cứu của Sáng kiến de dọa hạt nhân, một tổ chức phi lợi nhuận của Mỹ, nếu tiến 100km vào sâu bên trong lãnh thổ Triều Tiên tính từ đường biên giới, lực lượng quân sự Trung Quốc sẽ kiểm soát được vùng lãnh thổ bao gồm toàn bộ các cơ sở hạt nhân và 2/3 các căn cứ tên lửa thuộc diện ưu tiên cao nhất của Bình Nhưỡng. Với giới lãnh đạo Bắc Kinh, mục tiêu là tránh phát tán chất độc hạt nhân và họ kỳ vọng sự hiện diện của binh sĩ Trung Quốc ở những cơ sở này sẽ ngăn ngừa được một loạt những viễn cảnh tồi tệ: Trung Quốc có thể ngăn chặn tai nạn ở những điểm này, răn đe không để Mỹ, Hàn Quốc hay Nhật Bản tấn công chúng và phong tỏa Triều Tiên sử dụng hay phát tán kho vũ khí này.

Bắc Kinh cũng quan ngại một Triều Tiên thống nhất có thể sẽ được thừa hưởng tiềm lực hạt nhân của Bình Nhưỡng. Giới nghiên cứu Trung Quốc bị thuyết phục bởi luận điểm Hàn Quốc muốn sở hữu vũ khí hạt nhân và Mỹ ủng hộ tham vọng này của Seoul. Họ e ngại, trong trường hợp thể chế Kim Jong-un sụp đổ, quân đội Hàn Quốc sẽ chiếm giữ các cơ sở, kho nhiên liệu hạt nhân ngay cả khi Mỹ đồng ý hay phản đối. Dù lo ngại này có phần thái quá, ý tưởng sở hữu hạt nhân ngày càng được thảo luận nhiều ở Seoul. Đảng đối lập chính tại Hàn Quốc đã kêu gọi Mỹ tái triển khai vũ khí hạt nhân chiến thuật tới bán đảo – một lựa chọn mà Chính quyền Trump do dự loại trừ.

Ngoài quan ngại hạt nhân, sự thay đổi quan điểm của Trung Quốc một phần là sự quyết đoán địa chính trị ngày một lớn của Bắc Kinh dưới thời Tập Cận Bình. Khác với những người tiền nhiệm, Tập Cận Bình không ngần ngại đưa ra các tham vọng cường quốc đối với Trung Quốc. Trong bài phát biểu khai mạc Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc kéo dài ba tiếng rưỡi hồi tháng 10, Tập Cận Bình đã 26 lần nhắc lại các cụm từ “cường quốc”, “nước lớn”. Điều này hoàn toàn trái ngược với các quan điểm trước đây, ví như Đặng Tiểu Bình đề cao phương châm “giấu mình chờ thời”. Dưới thời Tập Cận Bình, Trung Quốc đang đảm nhận vai trò của một cường quốc. Tập Cận Bình cũng hối thúc cải cách quân đội, để bảo đảm PLA có thể chiến đấu và chiến thắng trong mọi cuộc chiến tranh trong tương lai.

Quan trọng hơn, chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên sẽ là liều thuốc thử cho sự cạnh tranh ảnh hưởng tại khu vực giữa Mỹ và Trung Quốc. Thực tế, lo ngại ảnh hưởng trong tương lai của Washington là lý do thuyết phục nhất lý giải tại sao Bắc Kinh không sẵn lòng gây sức ép với Bình Nhưỡng tới ngưỡng mà Chính quyền Trump đòi hỏi. Trung Quốc sẽ không mạo hiểm bất ổn hay chiến tranh một khi nhận thấy kết cục cuối cùng sẽ là vai trò lớn hơn của Mỹ tại khu vực. Trong tình huống này, Trung Quốc không còn cảm thấy thoải mái đứng nhìn. Như một quan chức PLA từng đặt câu hỏi: “Tại sao Mỹ lại hiện diện ở đó, còn chúng tôi thì không?”. Chỉ riêng lý do này thôi, giới học giả và quân sự Trung Quốc luôn cho rằng Bắc Kinh sẽ cần phải can dự trong bất kỳ một biến cố nào xảy ra trên bán đảo.

Hợp tác cùng nhau

Điểm cốt yếu chính là việc Washington phải hiểu rằng bất kỳ một xung đột nào trên bán đảo Triều Tiên lôi cuốn các chiến dịch quân sự quy mô lớn của Mỹ đều sẽ kích hoạt sự can dự quân sự đáng kể từ Bắc Kinh. Điều này không có nghĩa là Mỹ sẽ phải tìm cách răn đe Trung Quốc: Một phản ứng như vậy chắc chắn sẽ thất bại và làm tăng nguy cơ đối đầu quân sự trực diện giữa hai bên. Các bước đi làm phương hại quan hệ Mỹ-Trung cũng sẽ cản trở các nỗ lực ứng phó hay điều phối trước và trong khủng hoảng, tăng nguy cơ tính toán sai lầm.

Thay vào đó, Washington phải nhận thấy rằng một số hình thức can thiệp của Trung Quốc sẽ thực sự có lợi đối với Mỹ, đặc biệt là về chống phổ biến vũ khí hạt nhân. Quan trọng nhất, giới chức Mỹ nên hiểu rõ lực lượng quân sự Trung Quốc chắc chắn sẽ tiến đến các khu vực hạt nhân ở Triều Tiên trước Mỹ, do ưu thế về địa lý, cơ cấu tổ chức và nguồn binh lực. Nhưng đây lại là điểm tích cực, vì giúp tiết giảm nguy cơ chế độ bên bờ sụp đổ ở Bình Nhưỡng sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại Mỹ hay đồng minh của Mỹ. Trung Quốc cũng có thể đảm nhận vai trò hữu ích trong xác định các địa điểm hạt nhân (với sự trợ giúp của tình báo Mỹ), từ đó bảo vệ và chịu trách nhiệm quản lý nhiên liệu hạt nhân tại các cơ sở này, trước khi mời các chuyên gia quốc tế tới để phá hủy vũ khí. Cùng thời điểm, Mỹ có thể đảm nhận vai trò dẫn dắt những nỗ lực đa phương nhằm ngăn chặn việc chuyển nhiên liệu hạt nhân từ Triều Tiên bằng đường biển, đường không và đường bộ, tiếp đến là lưu giữ an toàn và tiêu hủy.

Trên hết, giới hoạch định chính sách Mỹ phải thay đổi cách đánh giá trong cách xem xét can dự của Trung Quốc, theo hướng xem đây là cơ hội thay vì cản trở các chiến dịch của Mỹ. Đơn cử như Lục quân và Hải quân đánh bộ Mỹ sẽ phải chấp nhận một thực tế: Dù việc bảo đảm các cơ sở hạt nhân là nhiệm vụ then chốt nhất ở Triều Tiên trong trường hợp xảy ra xung đột, họ sẽ phải thay đổi các kế hoạch một khi lực lượng quân sự Trung Quốc là người đến trước.

Ở cấp độ chính trị, Washington cần sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm trong cải thiện điều phối với Trung Quốc ở thời bình. Nó có thể bao gồm các cuộc tham vấn song phương với Bắc Kinh, ngay cả khi việc làm này đi ngược lại mong muốn của Hàn Quốc, do Seoul không muốn Mỹ, Trung Quốc xích lại gần nhau. Đương nhiên, chia sẻ thông tin tình báo, lập kế hoạch chung, huấn luyện chung cho các kịch bản ứng phó là điểm bất thường, vì Mỹ đồng thời sẽ phải can dự cạnh tranh chiến lược trong dài hạn với Trung Quốc. Bộ Quốc phòng Mỹ cũng xem Trung Quốc là 1 trong 5 mối đe dọa toàn cầu lớn nhất với Mỹ, cùng với Iran, Triều Tiên, Nga và các tổ chức cực đoan. Thế nhưng các mối đe dọa chiến lược và mối nguy hiện hữu trước mắt thường đưa các đối thủ xích lại gần nhau. Mối nguy Triều Tiên được loại trừ, Mỹ sẽ có nhiều nguồn lực hơn để giải quyết những thách thức khác.

Đương nhiên, một nỗ lực như vậy đòi hỏi điều phối ở cấp độ rộng. Trung Quốc từ lâu luôn phản đối can dự thảo luận với Mỹ về cách thức ứng xử trong trường hợp nổ ra xung đột trên bán đảo Triều Tiên, hoặc là chế độ Bình Nhưỡng sụp đổ. Nguyên do là Trung Quốc nghi ngờ toan tính của Mỹ, e ngại Washington sẽ sử dụng các cuộc trao đổi này để phá hủy nỗ lực của Bắc Kinh muốn giải quyết khủng hoảng hạt nhân bằng biện pháp hòa bình. Thế nhưng Trung Quốc cũng cho thấy một quan điểm mềm mỏng hơn. Trong bài xã luận được đăng trên Tạp chí trực tuyến Diễn đàn Đông Á hồi tháng 9 vừa qua, Giả Khánh Quốc, Giáo sư tại Đại học Bắc Kinh cho rằng Trung Quốc nên hợp tác với Mỹ và Hàn Quốc, nhất là trong các vấn đề còn để ngỏ liên quan đến kho vũ khí hạt nhân của Triều Tiên. Giả Khánh Quốc viết: “Nguy cơ chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên ngày một lớn. Khi chiến tranh là một khả năng thực tế, Trung Quốc cần chuẩn bị. Hiểu được điều đó, Trung Quốc cần phải sẵn sàng tính đến các cuộc đàm phán với các nước liên quan về các kế hoạch ứng phó”.

Nếu Bắc Kinh tiếp tục từ chối đề nghị cùng hợp tác, Washington sẽ đơn phương xem xét các hình thức thông báo về kế hoạch hành động của mình để giảm nguy cơ đụng độ bất ngờ. Mỹ thậm chí có thể cung cấp cho Trung Quốc thông tin tình báo giúp PLA bảo vệ các cơ sở hạt nhân quan trọng nhất. Tiếp theo, hai nước có thể sử dụng các cơ chế hợp tác an ninh hạt nhân dân sự đã được thiết lập, như Trung tâm an ninh hạt nhân (CENS) Mỹ-Trung hay qua các tổ chức khác như Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), để triển khai huấn luyện kĩ thuật. Không một nước nào có thể sánh kịp Mỹ về kinh nghiệm tiêu hủy và bảo vệ vũ khí hạt nhân. Trung Quốc dù có nhân lực chiếm giữ, kiểm soát các cơ sở hạt nhân ở Triều Tiên, nhưng chưa thể đạt tới trình độ lưu giữ, vận chuyển và phá hủy vũ khí, nhiên liệu hạt nhân an toàn. Chia sẻ thực tiễn sẽ giúp Trung Quốc xử lý hiệu quả những gì tìm kiếm được tại những địa điểm này.

Mỗi chiến lược đều có mức giá phải trả. Phối hợp hay nhượng bộ trước bước can dự của Trung Quốc trong kế hoạch ứng phó Triều Tiên gây ra một số hiệu ứng ngược, mà những người phê phán có thể sớm chỉ ra. Trước hết, Hàn Quốc kịch liệt phản đối ý tưởng để Trung Quốc can dự vào bán đảo, cao hơn là việc binh sĩ Trung Quốc hiện diện ở Triều Tiên. Bước đi điều phối nỗ lực với Trung Quốc cũng gây hại tới quan hệ của Mỹ với Seoul, dù lợi ích của việc kiểm soát mối đe dọa từ Triều Tiên với mức giá thấp là điều cần được tính tới.

Điểm lo ngại tiềm tàng hơn cả chính là việc can dự của Trung Quốc tại Triều Tiên sẽ khiến Mỹ mất đi ảnh hưởng trên bán đảo. Ở cấp độ cơ bản nhất, Trung Quốc sẽ hành động không phải là nhằm hỗ trợ Mỹ, mà là bảo đảm rằng một Triều Tiên thống nhất sẽ không còn sự hiện diện quân sự của Mỹ. Nhưng sau cùng đó không phải là một kết cục tồi. Việc chấm dứt đồn trú quân sự thường trực trên báo đảo Triều Tiên là một mức giá phù hợp với Mỹ, để bảo đảm rằng chiến tranh Triều Tiên một lần nữa sẽ có được kết cục tốt nhất.

***

Oriana Skylar Mastro là phó giáo sư nghiên cứu về An ninh tại Trường nghiên cứu ngoại giao Edmund A. Walsh, đại học Georgetown. Bài viết được đăng trên Foreign Affairs.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét