Mênh mông thế sự để gió cuốn đi số 26
Những ngày sao mà da diết nhớ Hà Nội. Nghe Tùng Dương hát
“Hà Nội tôi” của Nguyễn Cường càng nôn nao nỗi nhớ “Hà Nôi năm tháng rất xưa,
tình yêu tôi không bao giờ cũ, chạm vào đâu cũng thấy thân thương, hàng cây góc
phố con đường…”.
Liệu có phải vì vừa trải nghiệm điều mà nhân vật Batsana
trong tác phẩm “Quy luật của muôn đời”của Dumbatzé tự chiêm nghiệm “Con người
ta cần ốm nặng ít nhất một lần trong đời. Như vậy sẽ có dịp phân tích và đánh
giá lại toàn bộ quãng đường đã qua”? Hay là vì đúng những ngày này nhớ về Hà
Nôi một Mùa Giáng sinh B52, khi bom của Nixon lừng lững dựng những cột khói đen
thay cho cây thông Noel mà người Mỹ tặng người Hà Nôi năm 1972. Trong ngọn lửa
căm hờn ngút trời, người Hà Nôi vẫn tỉnh táo đón nhận những thảm họa trút xuống
bất kể giây phút nào. Có lẽ cả hai.
Con trai tôi lên 6 tuổi vẫn hồn nhiên reo lên: “kìa bố, máy
bay Mỹ rơi kia kìa”. Con trai tôi không hề biết, không cần biết rằng chúng nó
trút bom xuống trước khi rơi và bom sẽ lấy đi mạng sống bé bỏng của con cũng
như mạng sống của bao trẻ em khác. Và giờ đây con trai tôi điềm tĩnh nắm chặt
tay tôi vửa tỉnh dậy sau những phút hiểm nghèo.
Kể cũng lạ cho sức đề kháng tự vệ của cơ thể con người. Khi
bị tụt đường huyết đột ngột, trong nôn nao hoảng loạn, chẳng hiểu vì đâu tôi vẫn
đủ sức để bấm Iphone gọi cho con gái “Con ơi, chưa bao giờ bố thấy cần có con
bên cạnh như lúc này”. Là bác sĩ, con gái tôi hiểu ra ngay chuyện gì, đã gọi
cho anh nó trên đường phóng ngay về nhà.. Nhưng cũng phải mất 30 phút mới lao
được vào phòng tôi. Lạ một điều là chỉ khi đã nằm trong vòng tay của con tôi,
áp đầu vào ngực nó, tôi mới thật sự mê man không biết gì nữa. Tỉnh dây trên giường
phòng cấp cứu bệnh viện, chỉ thấy nhiều tấm áo choàng trắng vây quanh và nét mặt
tươi cười của con tôi. Bác sĩ Giám đốc bệnh viện nắm tay tôi cười: “thôi ổn rồi”.
Tôi cũng cười và thân mật nói với ông “con gái tôi nó khủng bố tôi anh ạ”, giáo
sư bác sĩ PNV từ tốn: “Con gái bác cứu sống bác đấy”. Rồi ông quay sang dặn dò
thêm các bác sĩ trước khi rời phòng cấp cứu. Từ nãy giờ đứng im lặng ở góc
phòng, con trai tôi bước đến nắm chặt tay tôi “cũng là bài học Bố ơi, bất cẩn
thì đành phải vậy thôi, Bố yên tâm điều trị, không phải lo lắng gì, mọi chuyện
để chúng con lo”. Con trai tôi nói theo cách quen thuộc của nó trong những tình
huống tôi phải vào bệnh viện như những lần trước. Chỉ có điều, khác đôi chút với
những ngày phẫu thuật ung thư phải nằm viện trước đây, những ngày thao thức
trên giường bệnh lần này tôi lại nghĩ nhiều về những chuyện đã qua và triền
miên trong những hoài niệm về Hà Nội.
Gợi lại hình ảnh của hai con tôi, chính là gợi lại những kỷ
niệm “Hà Nội tôi chẳng cũ bao giờ” như lời bài hát Nguyễn Cường trong giai điệu
say đắm với giọng hát Tùng Dương giữa những ngày gợi nhớ trận “ Điện Biên Phủ
trên không”. Hai con tôi là nhân chứng của Hà Nội khiến tôi hôm nay, sau cơn bạo
bệnh, có thì giờ nằm thao thức trong bệnh viện để chiêm nghiệm những gì từng đọng
sâu trong tiềm thức “chạm vào đâu cũng thấy thân thương”
Vợ tôi hay nhắc lại rằng, có lẽ bây giờ bệnh tật giày vò vì
dạo đẻ thằng con ở Bệnh viên C mỗi ngày phải lên xuống hầm cả chục lần theo tiếng
loa cảnh báo “Máy bay địch cách Hà Nội 50 cây số” rồi “Máy bay địch đã bay xa…”
Chưa kể đến chuyện trước đó, phải sơ tán lên xã Ký Phú, Thái Nguyên mà mỗi kỳ
khám thai phải nhờ bạn đèo xe đạp ra ga Đại Từ cách đó hơn 50km. Có lần đến nơi
thì bom Mỹ đã vừa đánh phá nhà ga, lại phải đi thêm hơn 10km nữa mới đến nơi
tàu đỗ, lại buộc phải trèo qua cửa sổ tàu hỏa mới vào được toa tàu chật cứng, đứng
suốt đêm mới về tới ga Hàng Cỏ.
Thế rồi những ngày “sơ tán B52”, chiếc xe đạp cọc cạch dồn
ba mạng người, con trai ngồi phía trước, vợ ngồi phía sau, hai bên buộc chặt mấy
túi cói đựng gạo, muối và đồ gia dụng cần thiết nhất. Đêm đứng ở cánh đồng làng
Sêu, Mỹ Đức nhìn về Hà Nội đỏ rực đạn phòng không đan chéo như sao sa trên bầu
trời mà hởi lòng hởi dạ vì B52 rơi. Gần đến Noel năm 1972, nghe tin sẽ có thỏa
thuận ngừng ném bom, tranh thủ trở về để thu xếp đồ đạc và tiếp tế thực phẩm.
Thế nhưng, đêm 26/12/1972, không quân Mỹ lại cấp tập ném bom trở lại. Cùng với
nhiều nơi khác ở Hà Nôi bị B52 hủy diệt, Khâm Thiên nơi mật độ dân cư đông đúc
vào bậc nhất của thủ đô bị nặng nhất. Toàn bộ 6 khối phố tại đây hầu như bị xóa
sạch.
Mờ sáng, chụp vôi lên đầu chiếc mũ sắt xin được, tôi phóng
lên Khâm Thiên. Gia đình của H… vợ chưa cưới của NĐA… bạn chí thiết của tôi ở
đó. Bạn tôi đang ở mặt trận Quảng Đà sau khi lên đường đi B. Giờ đây trong tai
tôi vẫn như còn vọng lại tiếng cuốc xẻng chạm vào những khối bê tông đổ sụp giữa
đống gạch ngói ngổn ngang. Và trong sâu thẳm ký ức là những đôi mắt vằn lên
trong tia phẫn nộ và sự kìm nén tiếng khóc để lầm lũi và điềm tĩnh hối hả đào bới
tìm người thân và bà con lối xóm. Từ trong đổ nát Khâm Thiên tôi đạp vòng về Ô
Cầu Dền, xuôi đường Hàng Bột, qua ga Hàng Cỏ xuống bệnh viện Bạch Mai đang ngổn
ngang bởi trận bom Mỹ trút xuống vào mờ sáng ngày 22.12. 1972, đứng lặng trước
hầm trú ẩn của bệnh viện đã đổ sập chôn vùi nhiều bệnh nhân và bac sĩ bị kẹt
trong đó. Gạt nước mắt, tôi đạp xe ngược trở lại ga Hàng Cỏ, xuôi theo đường Trần
Nhật Duật về Ô Quan Chưởng, qua đường Hàng Chiếu, ngược Hàng Lược, về Bờ Hồ để
được chứng kiến và hòa vào không khí trầm tĩnh của bản lĩnh người Hà Nội.
Người, xe nườm nượp từ nhiều góc đường, con phố thủ đô đổ về.
Đó là thói quen trong nét hào hoa, tao nhã của người Hà Nội trước những sự kiện
lớn. Người ta dồn về đây để cùng chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn, bộc lộ những
khát khao không thể chỉ giữ kín trong lòng. Nhất là những ngày như hôm nay, vừa
trải qua một đêm thức trắng vời bầu trời Hà Nôi rực sáng như sao sa tên lửa, đạn
pháo phòng không, khiến không ít người đã đẩy chiếc nắp hầm cá nhân bên vệ đường
mình vừa chui xuống chéo về một bên, để có thể nhoi đầu lên nhìn trời, nhìn đât
để réo gọi và la hét cùng với những người ở hầm bên cạnh. Dường như người vây
quanh Hồ Gươm chỉ bận tâm đến chuyện Noel B52, rộn ràng trong râm ran chuyện
nhìn thấy B52 rơi như thế nào, tên lửa ta như “pháo thăng thiên” ra sao, đạn
pháo của tự vệ trực trên cầu Long Biên nổ giòn cỡ nào.
Một chiếc mũ sắt được lột ra để tạm ngồi lên đó mà nhâm nhi
vại bia đang cầm tay và một vại đang đặt trước mặt do vừa xếp hàng mua ở quầy
bia đầu phố Trần Nguyên Hãn đối diện với cây lộc vừng sát Hồ Gươm, chàng trai mặt
còn sạm khói đang nói về chuyện pháo phòng không trên cầu Long Biên mà hoa mười
giờ được trồng trên đó vẫn còn nguyên vẹn. Trả lời câu hỏi “ông tìm được bia ở
đâu thế”, ông bạn chưa quen biết hất hàm chỉ vại bia đặt ngay dưới đất cách chiếc
mũ sắt đang ngồi độ gang tay nói với tôi “ngồi xuống uống đi, bia của nhà máy
bia Hoàng Hoa Thám vừa chuyển về đấy. Vừa uống tớ vừa kể cho chuyện tớ kẹt trên
cầu Long Biên lại có dịp may nhìn thấy tên lửa và đạn phòng không ta xơi tái
B52 ra làm sao”.
Nhìn chung quanh, những gương mặt xạm đen dưới những chiếc
mũ sắt, mũ rơm vẫn ngời sáng trong ánh mắt, trong giọng nói hồ hởi, rộn ràng về
câu chuyện máy bay rơi. Chắc là không thiếu những câu chuyện được “hư cấu” thêm
cho rôm rả. Tạm quên đi những chết chóc và đau thương, người Hà Nội hào hoa vẫn
hiên ngang trước mọi thách đố. Nét hào hoa đó càng đậm hơn, càng đẹp hơn nữa
khi chính những người Hà Nội từng chịu đựng nỗi đau Bạch Mai, Khâm Thiên lại hồ
hởi và vui vẻ đón chào John McCain khi ông đến lại Hà Nôi không phải với tư
cách là một phi công Mỹ rơi xuống hồ Trúc Bạch, mà là Thượng Nghị sĩ, Chủ nhiệm
Ủy ban Quân vụ Thượng viện Mỹ, nguyên là ứng cử viên Tổng thống Mỹ tranh cử với
Barack Obama.
Từ một tù binh phải ngồi trong trại giam Hà Nôi 5 năm rưỡi
khi chiếc máy bay cường kích bị bắn rơi trên bầu trời Hà Nội ngày 26.10.1967,
ông lại trở thành người bạn quý của Việt Nam cũng giống như nguyên ngoại trưởng
Mỹ John Kerry vốn từng tham chiến tại Việt Nam năm 1968-1969, chỉ huy tàu tuần
tra trên các kênh rạch đồng bằng sông Cửu Long, đã hối thúc cho việc bình thường
hóa quan hệ với Việt Nam. Do đâu? Một phần
vì “đã đến lúc hàn gắn… đó là một cách để kết thúc chiến tranh; đến lúc nhìn về
phía trước” như McCain giải thích. Và một phần vì ông nhận thấy “điều đó đáng
nên làm vì lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ, đặc biệt là sự nhìn xa thấy rộng Việt
Nam như một đối trọng trong vùng, đáng giá để đối đầu với Trung Quốc” [dẫn theo
James Walsh trong “Good Morning, VietNam” và Brown, Frederick Z trong “The
United States and Vietnam: Road to Normalization”.
Đừng quên rằng, bên mép hồ Trúc Bạch gần cuối đường Cổ Ngư
[nay là đường Thanh Niên] có một tượng đài ghi lại sự kiện ngày 26 tháng 10 của
năm mươi năm trước mà chính vị Thượng Nghị sĩ Mỹ khi tiếp đại sứ Nguyễn Tâm Chiến
đã chỉ bức ảnh treo trên tường và nói với ông Đại sứ: “Đây là bức ảnh tôi quý
nhất… Đại sứ biết không, đó là bức tượng duy nhất của tôi được dựng trên thế giới”!
Và rồi John McCain có lời nhắn gửi pha chút hài hước “nhân đây, tôi có một lời
đề nghị với phía Việt Nam (ông hạ giọng trịnh trọng), và nhờ Đại sứ chuyển về
Hà Nội rằng, Thượng Nghị sĩ McCain mong sao cái tượng nhỏ bên hồ luôn được sạch
sẽ”. Chắc khi đến thăm tượng đài ông Thượng nghị sĩ Mỹ nhìn thấy dấu phân chim
trên bức tượng!
Chắc không phải nói thêm rằng sự tế nhị thân tình ấy của người
đang nỗ lực hết mình cho việc hối thúc việc hủy bỏ lệnh cấm bán vũ khí cho Việt
Nam, mở ra một giai đoạn mới cho quan hệ Việt-Mỹ, đã diễn ra sau hành động ngu
xuẩn của một nhân vật cũng thuộc loại một “ứng viên cho cái ghế chóp bu” đã dày
công toan tính để “món quà ngoại giao được mang từ Việt Nam đem đến tặng ngài ứng
viên tổng thống Mỹ lại chính là bức ảnh trượng đài nói trên.
Đối chiếu với những gì đã diễn ra sau sô diễn vụng về phơi
bày tâm thế tiểu nhân đắc chí của kẻ đạo diễn, thì e rằng đây là một chủ trương
có sự cân nhắc kỹ lưỡng nhằm chống lại tầm nhìn của những J. McCain, J. Kerry
và những chính khách Mỹ khác nhìn thấy Việt Nam trong vị thế địa-chính trị của
bán đảo hình chữ S là một đối trọng trong vùng, đáng giá để đối đầu với Trung
Quốc như vừa dẫn ra! Đạo diễn cho sô diễn này không chỉ là “sáng kiến” của
riêng Hà Nội, mà chắc phải có bàn tay của các “thày Tàu” thò vào, trực tiếp hay
gián tiếp dàn dựng và chỉ đạo.
Cứ nghĩ kỹ câu chuyện hủy hợp đồng thăm dò khai thác của Tập
đoàn dầu khí Tây Ban Nha để rồi phải bỏ ra hơn 330 triệu USD để bồi thường cho
đối tác là hiểu ra được nhiều điều, trong đó có chuyện vừa kể. Có nhiều uẩn
khúc ẩn bên trong, song điều dễ thấy là Tập đoàn dầu khí vốn có một vai trò cực
lớn trong nền kinh tế lại này chưa nằm trong vòng kiểm soát của thế lực thao
túng nền kinh tế Việt Nam. Với Tổng giám đốc mới của Tập đoàn này vừa được bổ
nhiệm sau khi gần như toàn bộ lãnh đạo cũ của Tập đoàn đã bị xử lý, thì toan
tính đưa Tập đoàn dầu khí vào quỹ đạo mong muốn mới hoàn tất!
Có một sự kiện là điều chủ yếu khơi mào cho những diễn biến
gay cấn sau đó là một “tình tiết nho nhỏ”
tưởng cũng nên gợi lại ra: “tội đồ” Đinh La Thăng là quan chức cao cấp duy nhất
đã chỉ mặt mắng ngài tổng thầu Trung Quốc và dọa đuổi nếu vẫn cứ để gây ra sự cố
và chậm tiến độ đã cam kết. Một sự xúc phạm không thể tha thứ, ngay hôm sau
“Hoàn Cầu thời báo” đã lên tiếng hăm dọa. Phải trị những kẻ nào dám động đến
thiên triều, cho dù trong tình thế nào đó đã được bầu vào Bộ Chính trị. Rồi lại
trở thành bí thư Thành ủy của thành phố lớn nhất nước đang có mối quan hệ với
các nhà đầu tư Nhật Bản, Hàn Quốc và một số tập đoàn lớn của phương Tây để phục
dựng lại “Hòn ngọc Viễn đông” mà lại không dưa chính vào các thế lực chịu sự kiểm
soát của Trung Quốc.
Đây chính là một tình tiết làm tăng nặng, ngược lại với tình
tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự !Xúc phạm đến
“thiên triều” là trọng tôi nằm ngoài mọi luật pháp hiện hành khi mà “quyền lưc
nằm trong cái lồng” của người đồng chí cùng chung ý thức hệ XHCN với người láng
giềng khổng lồ cùng chung vận mệnh, điều kiện phát triển của bên này là điều kiện
phát triển của bên kia”!
Cũng chính vì vậy, khơi lại những kỷ niệm từng khắc ghi
trong tâm thế người Hà Nội hào hoa và bất khuất để hun đúc, nuôi dưỡng khát vọng
độc lập và tự do cũng là để vạch trần những thủ đoạn mờ ám, mượn cớ kỷ niệm sự
kiện lịch sử để thực thi những toan tính đen tối nhằm tô điểm cho sự gắn kết với
những người “đồng chí láng giềng cùng chung ý thức hệ XHCN đang cùng chung vận
mệnh” từ đó khơi dậy tư tưởng ghét Mỹ, phỉ báng những giá trị của tự do, dân chủ
và quyền con người, giá trị phổ quát của văn minh mà nhân loại đang hướng tới.
Có lẽ cần phải thêm đôi lời khi kể về những người Mỹ từng
tham dự cuộc chiến ở Việt Nam, trong đó có người đã trực tiếp ném bom xuống Hà
Nôi, lại trở thành người bạn tốt của Việt Nam, góp phần thúc đẩy mối bang giao
Việt-Mỹ, thì những kẻ xâm lược đến từ Trung Quốc, trực tiếp tàn sát nhân dân Việt
Nam lại được phong là “anh hùng” như Lý Tác Thành, đương kim Tổng tham mưu trưởng
quân đội Trung Quốc. Y từng được đưa đến nhiều nơi trên đất nước Trung Quốc để
“báo cáo thành tích” trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam như cha ông y đã
từng gây ra trong lịch sử của các triều đại Hán, Tùy, Đường, Tống , Nguyên,
Minh , Thanh.
Là liên đội trưởng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam
năm 1979 lúc 25 tuổi, y được thăng tiến rất nhanh, được phong “anh hùng” lúc 26
tuổi. Năm 1982 được chọn tham gia Đoàn Chủ tịch Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
12 của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở tuổi 29. Tháng 12 năm 2015 khi Tập Cận Bình
tiến hành đợt cải cách quân đội đầu tiên, Lý được chỉ định giữ chức Tư lệnh Lục
quân và tháng 8. 2017 được bổ nhiệm làm Tổng tham mưu trưởng. Báo chí thế giới
khi đưa tin này đã viết rằng “khắc tinh của Việt Nam đã được Tập Cân Bình tấn
phong làm Tổng tham mưu trưởng”! Phải chăng đây là ví dụ quá tiêu biểu cho cái
gọi là “tình hữu nghị Việt -Trung là tài sản chung của nhân dân hai nước cần phải
tôn trọng giữ gìn và vun đắp” mà Nguyễn Phú Trọng nêu lên trong chuyến thăm
Trung Quốc?
Đúng, phải vun đắp cho mối quan hệ này như năm 1979 chúng
tôi, những cán bộ khoa học của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam còn đủ sức gánh đất,
đã cùng với cả mấy ngàn thanh niên Hà Nôi được huy động lên huyện Việt Yên, Bắc
Ninh đắp phòng tuyến Sông Cầu, nơi có dòng Như Nguyệt uốn lượn từng đi vào lịch
sử của thời Lý Thường Kiệt phá tan quân xâm lược nhà Tống. Quả là chúng tôi đã vun
đắp cái phòng tuyến vững chãi trong lòng người dân Việt Nam quyết giữ gìn và
phát huy ý chí độc lập tự cường “như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, nhữ đẳng hành
khan thủ bại hư” như Lý Thường Kiệt đã khẳng định.
Hình ảnh những bại tướng như Quách Quỳ, Triệu Tiết thế kỷ XI
từng tim đập chân run bên bờ sông Như Nguyệt chắc còn đủ tác dụng cảnh tỉnh cho
những tên tướng Tàu thời Tập Cân Bình thế kỷ XXI! Đồng thời cũng đủ sức nhắc nhở
và cảnh báo những bọn tay sai toan tính theo đóm ăn tàn trong thể kỷ XXI khi tự
nhận “cùng chung vận mệnh” với kẻ thù đang diễu võ giương oai, nhe răng múa vuốt
thực hiện cuồng vọng uy hiếp, nhằm biến Việt Nam thành chư hầu của chúng.
Và rồi hôm nay đây, khi ngồi viết những dòng này, tiếng hát
Tùng Dương ngân nga trầm lắng giai điệu “Hà Nội Tôi” của Nguyễn Cường gọi dậy
trong tôi một nỗi niềm thương nhớ khó viết nên lời, “chợt nhìn lên một thoáng
mây xa, chuyện ngày xưa dấu xưa còn đó…Hà Nội tôi xưa mãi rất xưa. Dù rất xưa
chưa bao giờ cũ”! “Chưa bao giờ cũ” với
những ai từng sống với Hà Nội hào hoa và bản lĩnh trong những bước thăng trầm của
mảnh đất lịch sử ngàn năm này. Đặc biệt là kể từ những ngày các chàng trai, cô
gái Hà thành thề “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, những ngày mà nhiều người
dân Hà Nội đã mở tung chiếc nắp hầm cá nhân bên vệ đường để nhảy lên hoan hô bộ
đội ta bắn rơi máy bay trên bầu trời Hà Nội, bất chấp bom đạn có thể trút xuống
chính nơi họ đang đứng.
Những người ấy lại sẽ kiên cường đánh tan cuộc chiến tranh
xâm lược của hơn nửa triệu quân Tàu theo lênh Đặng Tiểu Bình tiến hành cuộc chiến
tranh tàn sát nhân dân sáu tỉnh biên giới phía Bắc. Đó là món sính lễ bẩn thỉu
để Đặng Tiểu Bình trao cho Richard Nixon sau cuộc hôn phối tồi tệ Mỹ-Trung khởi
đầu từ màn “ngoại giao bóng bàn” tháng 4.1971 đến việc bằng “Thông cáo Thượng Hải”
ngày 27.2.1972 Mao và Chu Ân Lai bật đèn xanh cho cho Nixon mở rộng việc ném
bom ra Miền Bắc mà điểm đỉnh là trận B52 hủy diệt Hà Nội trong Mùa Giáng sinh
tháng 12.1972.
Món sính lễ ấy nói rõ lòng dạ đen tối của chủ nghĩa bành trướng
thấm sâu vào tim óc đế chế Trung Hoa trong suốt chiều dài lịch sử của các triều
đại phong kiến cho đến Mao, Đặng, Giang, Hồ, Tập hôm nay. Để thực hiện được điều
ấy, Bắc Kinh sẵn sàng hủy bỏ mọi cam kết, tàn nhẫn chà đạp lên “tình hữu nghị”,
sự “gắn bó keo sơn” để đạt được mục tiêu. Nên nhớ rằng, thời điểm Thông cáo Thượng
Hải ra đời, thì Mỹ đã là một siêu cường còn Trung Quốc dù chiếm tỷ lệ dân số
cao nhất thế giới vẫn đang là một nước chậm phát triển, GDP tính bằng Nhân dân
tệ nếu quy theo thời giá hiện nay mới chỉ 251,8 tỉ, quy theo bình quân đầu người
chỉ là 292 nhân dân tệ. Và vì Trung Quốc đã gây hấn với Liên Xô, từ đồng chí biến
thành kẻ thù, sẵn sàng dùng chiến tranh để xử lý những tranh chấp, nên cần Mỹ
là chỗ dựa để phát triển. Làm tất cả để thu phục lòng tin của Mỹ là điều Bắc
Kinh cần.
“Bàn tay của ngài đã vượt qua đại dương lớn nhất thế giới 25
năm vắng bóng đối thoại”, lời Chu Ân Lai nói với Nixon khi đón Tổng thống Mỹ lần
đầu tiên đặt chân đến Trung Quốc để “chấm dứt một kỷ nguyên và mở ra một kỷ
nguyên mới” đã nói rõ gan ruột của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán. Và rồi, chính
Richard Nixon trước khi qua đời, mới “ngộ” ra được cái gọi là “mở ra một kỷ
nguyên mới” đó. Ông ta đã thừa nhận với nhà báo William Safire của New York
Times rằng trong “tuần lễ làm thay đổi thế giới” khi đến Bắc Kinh để chơi “lá
bài Trung Quốc”, Mỹ đã làm thế giới “thay đổi tồi tệ nhất”. Safire kể lại lúc
đó, bằng một giọng buồn rầu, Nixon đã nói rằng, “chúng ta có thể đã tạo ra một
con một quái vật Frankenstein”. Phải chăng đó cũng là lý do mà những J.
McCaine, những J. Kerry và nhiều người Mỹ có tầm nhìn xa trông rộng khác, những
người bạn quý của Việt Nam, đang dành cho nhân dân ta sự ủng hộ quý báu.
Lịch sử không lặp lại một cách thụ động theo lối sao y
nguyên bản như các thủ đoạn “diệt hổ diệt ruồi”, thanh toán đối thủ chính trị
dưới cái chiêu bài chống tham nhũng để tranh thủ quần chúng của Tập đang được
sao chép một cách trung thành ở Việt Nam hiện nay. Lịch sử đang từng bước vận động
theo quy luật phát triển mang tính phổ biến không thể đảo ngược được.
Truyền thống quật cường thà chết không chịu làm nô lệ đang cần
được phát triển theo hướng nâng cao dân trí để tiếp cận với những thành tựu của
văn minh mà thế giới đã và đang chứng kiến nhằm xây đắp ý chí tự cường quốc gia,
nâng cao nội lực để có thể tồn tại và phát triển trong một thế giới đa cực với
nhiều biến động khó lường. Không tạo ra được nội lực để làm sức bật, biến thách
thức thành cơ hội thì nguy cơ lệ thuộc vào Tàu khởi đầu từ mật ước Thành Đô sớm
muộn cũng xảy ra như nó đang từng bước tự phơi
bày.
Miên man suy ngẫm trong những ngày nằm trên giường bệnh mà lẩn
thẩn viết ra trong mênh mông thế sự chỉ mong được gió cuốn đi để rồi rơi vãi
đâu đó. Có ai nhặt được hay không thì đó là câu hỏi của cuộc sống. Quy luật muôn
đời là vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét