Kể từ khi có tin Việt Nam phải ngừng khoan thăm dò dầu khí trên biển
Đông do bị Trung Quốc đe dọa, truyền thông Việt Nam vẫn im lặng và Bộ
Ngoại giao cũng “im lặng một cách khác thường.”
Cho tới hết ngày 26/7, Bộ Ngoại giao Việt Nam chưa lên tiếng về vụ
việc này và thông tin về việc Việt Nam yêu cầu một công ty con của tập
đoàn dầu khí Tây Ban Nha Repsol ngừng khoan thăm dò dầu khí ở lô 136-03
trong vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam không xuất hiện trên
truyền thông chính thống.
Nguồn tin của các chuyên gia về biển Đông, giáo sư Carl Thayer của
Học viện quốc phòng Úc và học giả Bill Hayton của viện nghiên cứu
Chatham House, cho biết Trung Quốc đã đưa ra yêu cầu này thông qua đại
sứ Việt Nam ở Bắc Kinh. “Sau khi Bộ Chính trị (của Đảng Cộng Sản Việt
Nam) xem xét yêu cầu này đã quyết định ngừng khoan dầu,” học giả và nhà
báo chuyên viết về Việt Nam Hayton cho biết.
Các chuyên gia về biển Đông cho rằng lối đe dọa này của Trung Quốc là chưa từng có tiền lệ khi Bắc Kinh dọa dùng vũ lực, và trong bối cảnh đó Việt Nam phải nhượng bộ để có thời gian thay đổi chiến lược đối phó với Trung Quốc.
Sự giằng co giữa Việt Nam và Trung Quốc về vấn đề khoan dầu trên biển
Đông, theo giáo sư Alexander Vuving của Trung tâm nghiên cứu an ninh
châu Á-Thái Bình Dương, bắt đầu từ khi tướng Phạm Trường Long cắt ngắn
chuyến thăm tới Hà Nội và chương trình giao lưu quốc phòng giữa 2 nước
bị hủy bỏ.
Kể
từ đó, Trung Quốc và Việt Nam đều huy động 1 lượng lớn các tàu tuần
duyên và tàu đánh cá tới khu vực bãi Tư Chính (Vanguard Bank) nằm ở
phía Tây Nam trong quần đảo Trường Sa và cách Vũng Tàu khoảng 200 hải lý
về phía Đông Nam.
Hôm 23/7, một ngày trước khi bài báo của BCC và giáo sư Carl Thayer
nói về quyết định của Việt Nam ngừng khoan dầu trên biển, giáo sư Vuving
và Jonathan London đều đưa tin trên trang Twitter cá nhân về việc Trung
Quốc đang triển khai dàn khoan HYSY-760 cùng 40 tàu hải giám tới khu
vực gần bãi Tư Chính, quanh lô 163-03, là nơi Việt Nam lúc đó đang triển
khai dự án khai thác dầu Cá Rồng Đỏ do PetroVietNam hợp tác với Repsol
trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Dù Việt Nam và Trung Quốc đều chưa lên tiếng xác nhận hay phủ nhận về
thông tin Trung Quốc yêu cầu Việt Nam ngừng khoan dầu, người phát ngôn
của Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 26/7 được Reuters dẫn lời nói “Trung
Quốc thúc giục bên liên quan dừng các hoạt động vi phạm đơn phương và có
hành động thiết thực bảo vệ cho khu vực biển mà không dễ có được.”
Trung Quốc ngày càng hung hăng
“Sự đe dọa này của Trung Quốc đối với Việt Nam cho thấy sự hung hăng ngày càng tăng của Trung Quốc,” theo giáo sư Thayer.
Cùng chung nhận định này, giáo sư Vuving nói “hành động của Trung
Quốc cho thấy họ tiếp tục quyết liệt với các tuyên bố chủ quyền quá đáng
của mình trên biển Đông và tự tin về khả năng bắt nạn những nước khác
cũng có tuyên bố chủ quyền (trong vùng biển này).”
Kể từ cuối những năm 2000 và đặc biệt sau 1 năm tòa trọng tài quốc tế
ra phán quyết bác bỏ đường lưỡi bò 9 đoạn của Trung Quốc, nước này vẫn
không thay đổi gì trong cách hành xử và thậm chí còn có thêm nhiều hành
động hung hăng hơn.
Vào tháng 5 vừa qua, tổng thống Philippines Rodrigo Duterte đã nói
trước công chúng rằng chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc đe dọa “có
chiến tranh” nếu Philippines trở lại khai thác dầu và khoan thăm dò ở
bãi Recto. Vụ máy bay chiến đấu của Trung Quốc áp sát máy bay do thám
của hải quân Mỹ trên biển Đông hôm 24/7 là ví dụ mới nhất cho thấy sự
can thiệp của Trung Quốc vào các chuyến bay của Mỹ trên vùng trời phía
đông và nam của biển Trung Hoa. Trung Quốc hiện cũng đang tiến hành các
cuộc tập trận hải quân ở vùng biển Baltic với hải quân Nga, theo truyền
thông quốc tế.
Việc tiếp tục quân sự hóa của Trung Quốc trên biển Đông cũng cho thấy nước này đang coi thường phản ứng của cộng đồng quốc tế.
Những hình ảnh vệ tinh mới nhất do Trung tâm Nghiên cứu chiến lược
quốc tế (CSIS) của Mỹ ở Washington đưa ra hôm 19/6 cho thấy Trung Quốc
xây thêm các cơ sở quân sự mới trên các đảo nhân tạo ở quần đảo Trường
Sa mà Việt Nam cũng có tuyên bố chủ quyền.
Washington luôn cáo buộc Bắc Kinh quân sự hóa tuyến hải lộ trọng yếu
trong khu vực, nơi có lượng hàng hóa trị giá 5.000 tỷ USD được giao
thương hàng năm.
Thượng nghị sỹ Mỹ Cory Gardner hôm 18/7 đã lên tiếng cáo buộc Trung
Quốc gần đây có những hành động gây mất ổn định khu vực biển Đông và
biển Hoa Đông, làm trái với luật lệ quốc tế và tạo ra hiểm họa xung đột
trong tương lai.
Việt Nam phải làm gì?
Nếu Trung Quốc thực sự đe dọa dùng vũ lực để tấn công các thực thể
của Việt Nam trên biển Đông để buộc Việt Nam ngưng thăm dò dầu khí thì
đây là một sự leo thang chưa từng có và đáng báo động, theo ông Thayer,
cũng là giáo sư của Đại học New South Wales.
Việt Nam phải ngưng khoan dầu ở lô 136 bởi vì các lực lượng của họ
quá mỏng và không đủ khả năng để bảo vệ các hoạt động khoan thăm dò thêm
lâu hơn trước số lượng quá đông của các tàu Trung Quốc, theo nhận xét
của giáo sư Vuving.
Các nguồn tin từ Việt Nam mà vị giáo sư của Trung tâm nghiên cứu an ninh châu Á-Thái Bình Dương có được cho biết có gần 200 tàu của Trung Quốc được điều tới khu vực bãi Tư Chính trong khi Việt Nam chỉ có hơn 50 tàu ở khu vực khoan dầu này. Tuy nhiên, cũng theo nguồn tin của giáo sư Vuving, việc khoan thăm dò này cũng đã gần hoàn tất nhiệm vụ và họ đã phát hiện ra một mỏ khí có trữ lượng lớn.
Mặc dù một số chuyên gia trong nước cho rằng việc Việt Nam hủy bỏ
khoan thăm dò vì bị Trung Quốc đe dọa là “hành động bất lực, hèn nhát”
nhưng các chuyên gia quốc tế lại cho rằng đây là một sự rút lui đúng
lúc.
“Nếu Việt Nam tiếp tục khoan dầu với (đối tác) Repsol vào thời điểm
này thì Trung Quốc sẽ đưa các tàu tới thách thức. Họ sẽ gửi tàu thăm dò
và thậm chí tàu khoan tới khu vực mà Việt Nam đang khoan dầu. Những hàng
động này sẽ làm mỏng lực lượng tuần duyên và tàu theo dõi các hoạt động
đánh bắt cá của Việt Nam và lúc đó buộc Việt Nam phải dừng các hoạt
động khoan dầu để tập trung vào việc ngăn cản các hoạt động thăm dò và
khoan dầu của Trung Quốc,” theo tiến sỹ Vuving.
Giáo sư Carl Thayer cũng nhận định rằng nếu Việt Nam tiếp tục khoan
dầu thì “không nghi ngờ gì Trung Quốc sẽ can thiệp” hoặc bằng việc cắt
cáp tàu khoan dầu, hoặc gửi tàu đánh cá tới hoặc có các hành động quân
sự chống lại một trong các thực thể của Việt Nam trong khu vực này.
“Việt Nam luôn dùng cả ngoại giao và hành động để đáp trả các hành
động của Trung Quốc. Việt Nam không muốn hành động vội vàng trong một
thế mà họ không có lợi,” theo giáo sư Thayer và ông cho rằng Việt Nam
cần có thời gian để huy động những ý kiến từ quốc tế để đưa ra một chiến
lược thích hợp.
Tiến sỹ Vuving cũng cho rằng hành động ngừng khoan dầu của Việt Nam
là “một sự rút lui chiến lược chứ không phải là một sự đầu hàng” và Việt
Nam “chắc chắn sẽ không từ bỏ các tuyên bố chủ quyền của mình trong khu
vực nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của họ.”
Để làm được việc này, bước tiếp theo, theo giáo sư Thayer, là “Việt
Nam cần tìm kiếm sự ủng hộ của Nhật, Mỹ, Ấn Độ, Úc và châu Âu đồng thời
gặp gỡ các đại diện của các công ty dầu khí nước ngoài đang hoạt động
trong EEZ của Việt Nam để tham khảo các đánh giá của họ.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét