Nếu ngay sau khi chiếm được
miền Nam mà qúi vị cán bộ cộng sản cũng có được cách “lý giải”
tương tự thì thì Mai Thảo, Hoàng Anh Tuấn… đã không phải bỏ thân nơi
đất lạ. Vũ Đức Nghiêm cũng đã tránh được những giây phút bơ vơ, ngơ
ngác, lạc lõng ở xứ người. Và Trúc Phương thì chắc chắn vẫn sẽ
còn ở lại với chúng ta, vẫn có những đêm khắc khoải buồn vào hồn
không tên, thay vì nằm chết cong queo trong đói lạnh – trên một manh
chiếu rách – với tài sản duy nhất còn lại chỉ là một đôi dép nhựa.
*
Có bữa tôi đang ngồi lơ tơ mơ
hút thuốc thì chuông điện thoại reo:
– Tiến hả?
– Dạ…
– Vũ Đức Nghiêm đây…
– Dạ…
– Anh buồn quá Tiến ơi, mình
đi uống cà phê chút chơi được không?
– Dạ… cũng được!
Nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm (1930- 2017)
Tôi nhận lời sau một lúc tần
ngần nên tuy miệng nói “được” mà cái giọng (nghe) không được gì cho
lắm. Tôi cũng thuộc loại người không biết làm gì cho hết đời mình
nên thường rảnh nhưng không rảnh (tới) cỡ như nhiều người trông đợi.
Sống ở Mỹ, chớ đâu phải Mỹ Tho mà muốn đi đâu thì đi, và muốn đi
giờ nào cũng được – mấy cha?
Khi Mai Thảo và Hoàng Anh
Tuấn còn trên dương thế, thỉnh thoảng, tôi cũng vẫn nghe hai ông thở ra
(“anh buồn quá Tiến ơi”) y chang như thế. Chỉ có điều khác là ông nhà
văn khi buồn thì thích đi uống rượu, ông thi sĩ lúc buồn lại đòi đi…
ăn phở, còn bây giờ thì ông nhạc sĩ (lúc buồn) chỉ ưa nhâm nhi một
tách cà phê nóng. Ai sao tui cũng chịu, miễn đến chỗ nào (cứ) có bia
bọt chút đỉnh là được!
Vũ Đức Nghiêm sinh sau Mai
Thảo và trước Hoàng Anh Tuấn. Ông chào đời vào năm 1930. Hơn 80 mùa
xuân đã (vụt) trôi qua. Cả đống nước sông, nước suối – cùng với nước
mưa và nước mắt – đã ào ạt (và xối xả) chẩy qua qua cầu, hay trôi
qua cống. Những dịp đi chơi với ông (e) sẽ cũng không còn nhiều lắm
nữa. Tôi chợt nghĩ như thế khi cho xe nổ máy.
Quán cà phê vắng tanh. Nhạc
mở nhỏ xíu nhưng tôi vẫn nghe ra giai điệu của một bài hát rất quen:
Gọi người yêu dấu bao lần.
Nhẹ nhàng như gió thì thầm.
Làn mây trôi gợi nhớ chơi vơi
thương người xa xôi.
Gọi người yêu dấu trong hồn.
Ngập ngừng tha thiết bồn chồn.
Kỷ niệm xưa mơ thoáng trong sương
cho lòng nhớ thương…
- Hình như là nhạc Vũ Đức
Nghiêm… Anh nghe xem có đúng không? Tôi đùa.
- Em nói nghe cái gì?
- Anh thử nghe nhạc coi…
- Nhạc của ai?
Tôi chợt nhớ ra là ông anh đã
hơi nặng tai nên gọi cô bé chạy bàn:
- Cháu ơi, người ngồi trước
mặt chúng ta là tác giả của bản nhạc Gọi Người Yêu Dấu mà mình
đang nghe đó. Cháu mở máy lớn hơn chút xíu cho ổng… sướng nha!
Thấy người đối diện có vẻ
bối rối vì cách nói vừa dài dòng, vừa hơi quá trịnh trọng của
mình nên tôi cố thêm vào một câu tiếng Anh (vớt vát) nhưng ngó bộ
cũng không có kết quả gì. Đúng lúc, chủ quán bước đến:
- Cháu nó mới từ Việt Nam
sang, ông nói tiếng Mỹ nó không hiểu đâu. Ông cần gì ạ?
- Dạ không, không có gì đâu.
Never mind!
Tôi trả lời cho qua chuyện vì
chợt nhận ra sự lố bịch của mình. Cùng lúc, bản nhạc của Vũ Đức
Nghiêm cũng vừa chấm dứt. Tôi nhìn anh nhún vai. Vũ Đức Nghiêm đáp lại
bằng một nụ cười hiền lành và… ngơ ngác!
Tự nhiên, tôi thấy gần và
thương quá cái vẻ ngơ ngác (trông đến tội) của ông. Tôi cũng bị nhiều
lúc ngơ ngác tương tự trong phần đời lưu lạc của mình. Bây giờ hẳn
không còn ai, ở lứa tuổi hai mươi - dù trong hay ngoài nước - còn biết
đến tiếng “Gọi Người Yêu Dấu” (“ngập ngừng tha thiết bồn chồn”) của
Vũ Đức Nghiêm nữa. Thời gian, như một giòng sông hững hờ, đã vô tình
bỏ lại những bờ bến cũ.
Vũ Đức Nghiêm, tựa như một
cây cổ thụ hiếm hoi, vẫn còn đứng lại bơ vơ bên bờ trong khi bao nhiêu
nhạc sĩ cùng thời đều đã ra người thiên cổ. Trúc Phương là một trong
những người này. Qua chương trình Bẩy Mươi Năm Tình Ca Trong Tân Nhạc
Việt Nam, nhà phê bình âm nhạc Hoài Nam đã cho biết nhiều chi tiết vô
cùng thê thiết về cuộc đời của người viết nhạc (chả may) này.
Trang sổ tay hôm nay, chúng tôi
xin được nắn nót ghi lại đây những nhận xét của Hoài Nam, và mong
được xem như một nén hương lòng (muộn màng) gửi đến một người đã
khuất:
“Trúc Phương là một trong
những nhạc sĩ gốc miền Nam được yêu mến nhất, từng được mệnh danh
là ông vua của thể điệu Bolero tha thiết trữ tình. Ông tên thật là Nguyễn
Thiện Lộc, ra chào đời năm 1939 tại xã Mỹ Hoà, quận Cầu Ngang, tỉnh Trà
Vinh, tức Vĩnh Bình – một xứ Chùa Tháp thu nhỏ ở vùng hạ lưu sông Cửu
Long…”
Nhạc sĩ Trúc Phương (1939-1996) theo bài nầy
Tháng 4 năm 1975, Trúc Phương bị kẹt lại. Năm 1979, ông vượt biên nhưng bị bắt và bị tù. Sau khi được thả, cuộc sống của ông trở nên vô cùng thê thảm về thể xác vật chất cũng như tinh thần. Trong một đoạn video phỏng vấn ông, được Trung Tâm Asia phổ biến tại hải ngoại, Trúc Phương cho biết:
Tháng 4 năm 1975, Trúc Phương bị kẹt lại. Năm 1979, ông vượt biên nhưng bị bắt và bị tù. Sau khi được thả, cuộc sống của ông trở nên vô cùng thê thảm về thể xác vật chất cũng như tinh thần. Trong một đoạn video phỏng vấn ông, được Trung Tâm Asia phổ biến tại hải ngoại, Trúc Phương cho biết:
“Sau cái biến cố cuộc đời, tôi sống
cái kiểu rài đây mai đó,’bèo dạt hoa trôi’… Nếu mà nói đói thì cũng không đói
ngày nào, nhưng mà no thì chẳng có ngày nào gọi là no…Tôi không có cái mái nhà,
vợ con thì cũng tan nát rồi, tôi sống nhà bạn bè, nhưng mà khổ nổi hoàn cảnh họ
cũng bi đát, cũng khổ, chứ không ai đùm bọc ai được…đến nửa lúc đó thì vấn đề
an ninh có khe khắc, lúc đó thì bạn bè tôi không ai dám “chứa” tôi trong nhà cả,
vì tôi không có giấy tờ tùy thân, cũng chẳng có thứ gì trong người cả. Tôi nghĩ
ra được một cách... là tìm nơi nào mà có khách vãng lai rồi mình chui vào đó ngủ
với họ để tránh bị kiểm tra giấy tờ…Ban ngày thì lê la thành phố, đêm thì phải
ra xa cảng thuê một chiếc chiếu, 1 chiếc chiếu lúc bấy giờ là 1 đồng…thế rồi ngủ
cho tới sáng rồi xếp chiếc chiếu trả người ta... thế là mình lấy 1 đồng về… như
là tiền thế chân…Một năm như vậy, tôi ngủ ở xa cảng hết 9 tháng…Mà nói anh
thương…khổ lắm… Hôm nào mà có tiền để đi xe lam mà ra sớm khoảng chừng năm giờ
có mặt ngoài đó thế rồi thuê được chiếc chiếu trải được cái chỗ lịch sự chút
tương đối vệ sinh một tí mà hôm nào ra trễ thì họ chiếm hết rồi, những chỗ sạch
vệ sinh họ chiếm hết rồi,tôi đành phải trải chiếu gần chỗ ‘thằng cha đi tiểu vỉa
hè’, thế rồi cũng phải nằm thôi. Tôi sống có thể nói là những ngày bi đát…mà lẽ
ra tôi nên buồn cho cái hoàn cảnh như thế nhưng tôi không bao giờ buồn… Tôi
nghĩ mà thôi, còn sống cho tới bây giờ và đó cũng là một cái chất liệu để tôi viết
bài sau này…”
Chất liệu, rõ ràng, đã có
(và có quá dư) nhưng cơ hội để Trúc Phương viết bài sau này (tiếc
thay) không bao giờ đến – vẫn theo như lời của nhà phê bình âm nhạc
Hoài Nam:
“Vào một buổi sáng năm 1996,
Trúc Phương không bao giờ thức dậy nữa. Ông đã vĩnh viễn ra đi. Tất
cả gia tài để lại chỉ là một đôi dép nhựa dưới chân. Thế nhưng xét
về mặt tinh thần Trúc Phương đã để lại cho chúng ta một di sản vô
giá.”
“Chúng ta ở đây là những
người yêu nhạc, trong nước cũng như hải ngoại, bên này cũng như bên kia
chiến tuyến. Bởi vì hơn ba mươi ca khúc nổi tiếng của ông cho dù có
một hai bài có nhắc đến chữ ‘cộng hoà’ vẫn phải được xem là những
tình khúc viết cho những con người không phải cho một chế độ chính
trị nào. Những con người sinh ra và lớn lên trong một cuộc chiến không
lối thoát với niềm khắc khoải chờ mong một ngày thanh bình. Cuối
cùng thanh bình đã tới nhưng không phải là thứ thanh bình mà những
‘con tim chân chính’ trong nhạc của Lê Minh Bằng hằng mơ ước mà là thứ
thanh bình của giai cấp thống trị, của một thiểu số may mắn nào đó.
Chính cái thanh bình ấy đã cướp đi bao nhiêu sinh mạng trong đó có
người Việt Nam xấu số đáng thương tên Nguyễn Thiện Lộc, tức nhạc sĩ
Trúc Phương nổi tiếng của chúng ta.”
Thôi thì cũng xong một kiếp
người! Và dòng đời, tất nhiên, vẫn cứ lạnh lùng và mải miết trôi.
Sáng nay, tôi lại chợt nhớ đến Trúc Phương sau khi tình cờ đọc được
một mẩu tin ngăn ngắn - trên báo Pháp Luật, phát hành từ trong nước:
“Ngày 31-1, một số cán bộ hưu
trí, người dân ở phường Bình Hưng Hòa B (quận Bình Tân, TP.HCM) bức xúc phản
ánh cuộc họp mặt đầu năm do phường tổ chức… Ngay phần khai mạc lúc gần 9 giờ
sáng, trên nền nhạc hip hop, hai phụ nữ ăn mặc hở hang, thiếu vải lên nhún nhảy,
múa những động tác khêu gợi. Hai thanh niên múa phụ họa. Quan sát đoạn video
chúng tôi thấy nhiều cán bộ hào hứng xem tiết mục ‘lạ mắt’ này. Có cán bộ còn
dùng điện thoại quay lại cảnh hai cô gái biểu diễn, ưỡn người và ngực về phía
khán giả. Nhiều người tham gia rất hào hứng, chỉ trỏ, thì thầm vào tai nhau…
Chúng tôi tiếp tục liên lạc với
bà Nguyễn Thị Bích Tuyền, Phó Chủ tịch phường kiêm Chủ tịch Công đoàn phường…
bà Tuyền lý giải: ‘Tiết mục múa chỉ diễn ra gần 3 phút và đây là vũ điệu theo
phong cách Hawaii nên hơi lạ…”
Nếu ngay sau khi chiếm được
miền Nam mà qúi vị cán bộ cộng sản cũng có được cách “lý giải”
tương tự thì thì Mai Thảo, Hoàng Anh Tuấn… đã không phải bỏ thân nơi
đất lạ. Vũ Đức Nghiêm cũng đã tránh được những giây phút bơ vơ, ngơ
ngác, lạc lõng ở xứ người. Và Trúc Phương thì chắc chắn vẫn sẽ
còn ở lại với chúng ta, vẫn có những đêm khắc khoải buồn vào hồn
không tên, thay vì nằm chết cong queo trong đói lạnh – trên một manh
chiếu rách – với tài sản duy nhất còn lại chỉ là một đôi dép nhựa.
Mọi cuộc cách mạng luôn luôn
có cái giá riêng của nó. Riêng cái thứ cách mạng (thổ tả) của
những người cộng sản Việt Nam thì đòi hỏi mọi người đều phải trả
cái giá (hơi) quá mắc mà thành quả – xem ra – không có gì, ngoài tội
ác!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét