Những câu hỏi được đặt ra cho những đường biên giới tưởng chừng
đã rõ ràng và vĩnh viễn. Những tranh chấp ngoài khơi. Sự trỗi dậy của những thế
lực dân tộc chủ nghĩa cực đoan. Những xung đột xoay quanh các cộng đồng dân tộc
thiểu số. Sự can thiệp của những nước lớn. Một chính phủ Việt Nam phải đứng trước
lựa chọn hóc búa giữa việc gìn giữ hòa bình và thực hiện nghĩa vụ giữ vững an
ninh của quốc gia và bảo vệ kiều bào.
Đây là những sự kiện đặc trưng của năm 1978, một năm đặc biệt
khó khăn trong lịch sử cận đại của Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng.
Trong năm đó, dưới sức ép của liên minh Trung Quốc – Khmer Đỏ, Việt Nam đã phải
đưa quân vào giải phóng Campuchia khỏi tay của bè phái diệt chủng Pol Pot, mở đầu
cho một thập kỷ mà Việt Nam bị cô lập về mọi mặt, phải phụ thuộc vào viện trợ của
Hội đồng Tương trợ Kinh tế, phải đối phó với một cuộc xâm lược ở biên giới phía
Bắc, và chịu tổn thất lớn về con người trên đất bạn.
Nhưng phải chăng có nguy cơ những từ khóa trên cũng có thể
áp dụng được để miêu tả bối cảnh hiện tại và tương lai gần của bán đảo Đông
Dương? Từ lúc hình thành đảng, nhiều thành viên trong Đảng Cứu quốc Campuchia
(CNRP) do Sam Rainsy đứng đầu đã khẳng định lập trường cực đoan của mình với những
lời phát ngôn bài Việt Nam, cộng đồng Việt Nam tại Campuchia, và ủng hộ lập trường
của Bắc Kinh trên Biển Đông. Trong tháng 6 và đầu tháng 7 năm nay, một số thành
viên của CNRP đã liên tục chỉ trích những nỗ lực đàm phán hoạch định biên giới
Việt Nam – Campuchia là một quá trình lấn chiếm đất Campuchia bởi Chính phủ Việt
Nam. Họ đã đẩy Thủ tướng Hun Sen vào thế khó, buộc ông phải yêu cầu Liên Hợp Quốc
gửi cấp tốc các bản đồ từ thời Pháp thuộc để làm sáng tỏ cơ sở pháp lý của đường
biên giới và chấm dứt sự “xúi giục” của những chính trị gia CNRP. Song song với
những sự kiện này, trong khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đang thăm Hoa Kỳ, Bộ
trưởng Quốc phòng Campuchia Tea Banh đã dẫn một đoàn gồm 23 lãnh đạo cao cấp của
cả ba nhánh quân đội tới Trung Quốc để trao đổi về hợp tác bảo vệ những “lợi
ích cốt lõi” của nhau.
Hiện nay, Đảng Nhân dân Campuchia (CPP) vẫn đang cầm quyền
và kiềm chế được một phần những thành phần cực đoan trong nước. Tuy nhiên, thế
lực của CPP đã suy giảm mạnh sau cuộc tổng tuyển cử năm 2013, và nguy cơ họ sẽ
bị đánh bại bởi CNRP và các đảng phái cực đoan khác trong cuộc tổng tuyển cử dự
kiến vào năm 2018 là hoàn toàn có thể. Nếu CNRP cầm quyền, một khả năng là căng
thẳng song phương có thể leo thang nhanh chóng nếu họ tiếp tục các quan điểm
chính sách như lâu nay, gợi nhớ lại thời kỳ những năm 1977-78. Tới khi đó, Việt
Nam sẽ rất khó có cách đối phó. Với tư cách là một người nghiên cứu lịch sử,
tôi muốn rút ra ba bài học lịch sử quan trọng cho chính sách Việt Nam hiện tại
để ngăn ngừa nguy cơ lịch sử năm 1978 sẽ lặp lại năm 2018.
Bài học thứ nhất: Phòng bệnh hơn chữa bệnh
Khi quyết định đưa quân vào giải phóng Campuchia vào cuối
năm 1978, Việt Nam chưa tính trước được hết những hậu quả bất lợi. Nhưng kể cả
với hậu quả như vậy, chúng ta cũng phải hiểu rõ rằng tới lúc đó, với 19 sư đoàn
Khmer Đỏ được huy động tới biên giới Tây Nam, xung đột ở biên giới phía Bắc và
hàng vạn người gốc Việt tại Campuchia đối mặt với nạn diệt chủng, Việt Nam đã bị
rơi vào tình trạng “tiến thoái lưỡng nan”. Vậy, có lẽ bài học đơn giản nhất
nhưng cũng quan trọng nhất là chúng ta phải xác định sớm những nguy cơ nghiêm
trọng của chủ nghĩa dân tộc cực đoan đang trỗi dậy ở Campuchia, dù có thể giả
danh là một đảng “Cộng sản” (như Khmer Đỏ) hay là “dân chủ” (như CNRP), và sớm
tìm các biện pháp đối phó.
Bài học thứ hai: Chủ nghĩa dân tộc cực đoan là cây nhà lá vườn
Khi quân Khmer Đỏ tiến hành đánh vào biên giới Tây Nam một
cách mạnh mẽ từ tháng 4 năm 1977, đó là một cú sốc cho các nhà hoạch định chính
sách ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam. Phần lớn các lý thuyết về quan hệ quốc tế đều
khó có thể diễn giải được nguyên nhân một nước nhỏ với quân đội yếu như
Campuchia lại dám tấn công Việt Nam, một nước lớn mạnh hơn nhiều. Dựa trên
logic của những lý thuyết về tương quan lực lượng, các nhà chính sách Việt Nam
đã tin rằng phải có một cường quốc nào đó đứng sau kéo dây cho những hành động
này của Chính phủ Khmer Đỏ – đó chính là Trung Quốc.
Kết luận này không hoàn toàn chính xác. Mặc dù Trung Quốc đã
viện trợ đáng kể cho chính quyền Khmer Đỏ, nhưng họ đã khá thất bại trong công
cuộc biến đồng tiền viện trợ thành ảnh hưởng chính trị. Quyết định tấn công Việt
Nam là của bè phái Pol Pot – Ieng Sary đưa ra, dựa trên mong muốn là hồi phục lại
cho Campuchia những vùng lãnh thổ đã bị mất đi trong quá trình suy thoái của Đế
chế Angkor, và không đếm xỉa đến tương quan lực lượng chính vì họ ảo tưởng về
tiềm năng của dân tộc. Họ đã dạy tướng sĩ rằng một lính Khmer có thể giết 30
lính Việt. Cho dù Trung Quốc cũng có đối chọi với Việt Nam, song cả Đặng Tiểu
Bình, Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu đều đã nhiều lần cố gắng thuyết phục Pol Pot
ngừng tấn công nước láng giềng, vì họ hiểu rõ rằng nếu tiếp tục chính sách đó sẽ
dẫn đến sự sụp đổ của chế độ Khmer Đỏ, kéo theo đó là sự suy giảm tầm ảnh hưởng
của Trung Quốc ở Đông Dương.
Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần hiểu rằng trong khi
Trung Quốc có thể cố gắng sử dụng Campuchia để chia rẽ ASEAN và gây khó dễ về mặt
chiến lược cho Việt Nam, bản chất vấn đề biên giới phía Tây Nam là chủ nghĩa
dân tộc cực đoan, xuất phát từ nội bộ Campuchia, bị tác động một phần vì các hoạt
động của Kiều bào Việt Nam ở Campuchia. Để giải quyết vấn đề này, xây dựng một
sự hiểu biết với Trung Quốc là chưa đủ. Chúng ta phải đấu tranh tư tưởng để
giành được trái tim và tâm trí của người dân Campuchia. Chúng ta cũng cần tập
trung đấu tranh truyền thông và văn hóa, kết nối lại tình cảm đặc biệt giữa hai
dân tộc, và tuyệt đối tôn trọng chủ quyền của Chính phủ nước bạn.
Bài học thứ ba: Ngòi bút mạnh hơn thanh gươm
Việc Việt Nam đưa quân vào giải phóng Campuchia khỏi chế độ
Khmer Đỏ diệt chủng tưởng chừng đã là một sự kiện được cả thế giới hoan nghênh.
Trước khi đưa quân vào Campuchia, Thứ trưởng Ngoại giao Phan Hiền và Thủ tướng
Phạm Văn Đồng đều đã đi thăm các nước Đông Nam Á, và đinh ninh là họ cũng đều
lo sợ ảnh hưởng và ý đồ bành trướng của Trung Quốc vào Đông Nam Á và lên án
Khmer Đỏ. Trong khi đó, phát ngôn của nhiều nước phương Tây, trong đó có cả Tổng
thống Mỹ Jimmy Carter, đã phê phán chế độ Khmer Đỏ diệt chủng. Thế nên sau khi
quân ta đã tiến vào đất Campuchia, việc một loạt các nước phát triển như Cộng
hòa Liên bang Đức, Nhật Bản, Pháp… ngừng hoặc đình chỉ viện trợ cho Việt Nam;
ASEAN từ hợp tác lại đổi thành cấm vận Việt Nam và nhà nước Cộng hòa Nhân dân
Campuchia; Mỹ đình chỉ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, tất cả dường như đều
đã khiến các nhà hoạch định chính sách nước ta bất ngờ. Họ đã hiểu nhầm hoàn
toàn dư luận của thế giới nói chung và khu vực nói riêng, không hiểu rằng trong
bối cảnh Chiến tranh Lạnh căng thẳng trở lại thì các nước (nhất là trong khu vực)
đã chủ trương coi trọng sự ổn định an ninh khu vực hơn là công lý của việc lật
đổ bè phái diệt chủng trong thời điểm đó. Vì không nắm rõ lập trường của thế giới
trước khi hành động, Việt Nam đã bị cô lập rất nhiều năm.
Bối cảnh hiện nay có nhiều mặt tích cực hơn năm 1978. Quan hệ
cạnh tranh đối đầu tay đôi chính giữa các cường quốc không còn là Mỹ-Nga mà là
Mỹ-Trung. Vì vậy, Mỹ và các đồng minh sẽ dễ dàng nghiêng về phía Việt Nam hơn.
Tuy nhiên, cũng phải để ý là trong tổng tuyển cử 2013 phía Mỹ đã ủng hộ CNRP vì
cho là họ cầm ngọn cờ dân chủ. Cho dù hiện nay Mỹ vẫn đang cố gắng giữ ảnh hưởng
ở cả hai phe phái (CPP và CNRP), vẫn chưa thể khẳng định Mỹ sẽ hướng về đâu nếu
một tình huống như 1978 xảy ra. Hiện chúng ta vẫn chưa biết rõ toàn bộ lập trường
của các nước khác trong ASEAN và khu vực, và chính kiến của họ có thể xoay chuyển
khá nhanh tùy theo các yếu tố nội bộ và quốc tế. Như vậy thì trước khi đi một
bước lớn nào, tốt nhất là nên nghiên cứu sâu và kỹ về những phản ứng của dư luận
thế giới. Có lẽ các nhà hoạch định chính sách Việt Nam nên nói thẳng thắn về kế
hoạch của mình với những nước quan trọng và đáng tin cậy hơn là kiểu nói bóng
gió của Phan Hiền và Phạm Văn Đồng năm 1978.
Chúng ta có thể thấy, trong khi lý thuyết có nhiều mặt mạnh
về khái quát, lịch sử cũng có thể cho ta nhiều bài học cụ thể về cách hiện tại
và tương lai diễn ra. Ba bài học cơ bản trên tôi đã rút ra trong quá trình
nghiên cứu lịch sử và tin là hữu ích cho chính sách đối ngoại hiện nay. Tuy
không phủ nhận là bối cảnh hiện nay có nhiều khác biệt so với cuối thập kỷ
1970, nhưng tôi tin rằng có nhiều điểm giống nhau đủ để các nhà hoạch địch
chính sách Việt Nam nên đánh giá nghiêm túc những kinh nghiệm của lớp ngoại
giao đi trước, nhằm tránh vướng phải những sai lầm họ từng mắc, và để năm 1978
sẽ không tự lặp lại năm 2018.
***
Vũ Minh Hoàng là Nghiên cứu sinh Tiến sỹ chuyên ngành Sử học,
Đại học Cornell.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét