Hàng ngồi từ trái sang: Ông Võ Chí Công, Nguyễn Văn Linh, Lê
Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười. Ảnh: internet
Chúng tôi, những nạn nhân còn sống và thân nhân những nạn
nhân đã qua đời trong một vụ án không được xét xử cách nay vừa tròn 50 năm được
gọi tắt là “Vụ án Xét lại chống Đảng”, một lần nữa phải lên tiếng vì sự thật và
công lý, vì lương tâm và nghĩa vụ, vì một đất nước thượng tôn pháp luật.
Bối cảnh lịch sử
Năm 1956, tại Đại hội 20 Đảng cộng sản Liên Xô, Tổng bí thư
Nikita Khrushev đã đọc báo cáo quan trọng về chống tệ sùng bái cá nhân Stalin
và chủ trương “cùng tồn tại trong hoà bình” giữa hai hệ thống cộng sản và tư bản.
Đường lối mới đã được hầu hết các đoàn đại biểu tán đồng tại Đại hội các đảng cộng
sản và công nhân quốc tế họp tại Moskva với 81 thành viên tham dự năm 1960.
Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) do Chủ tịch Đảng
Hồ Chí Minh cùng với Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn và các ủy viên Bộ Chính trị Trường
Chinh, Nguyễn Chí Thanh tham dự đã ký vào bản Tuyên bố chung Hội nghị trên. Đường
lối mới này đã bị Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) kịch liệt lên án, gọi là “Chủ
nghĩa xét lại hiện đại”.
Sự thay đổi trong nhận định về quan hệ quốc tế đã phân hoá nội
bộ một số đảng cộng sản. Trong ĐCSVN cũng xuất hiện hai luồng quan điểm khác
nhau. Một bên ủng hộ “cùng tồn tại trong hoà bình”, phản đối đường lối giáo điều
tả khuynh của ĐCSTQ, chủ trương hòa bình thống nhất đất nước, phát triển kinh tế
đa thành phần.
Bên kia, theo đường lối của ĐCSTQ, chủ trương chống “chủ
nghĩa xét lại hiện đại”, duy trì xã hội chuyên chính phi dân chủ, đẩy mạnh cải
cách xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ hoàn toàn cơ chế kinh tế thị trường, kiên định chủ
trương thống nhất đất nước bằng bạo lực.
Cuộc đấu tranh trong nội bộ diễn ra âm thầm nhưng căng thẳng
đã kết thúc bằng nghị quyết của Hội nghị Trung ương 9 ĐCSVN họp năm 1963, đi
ngược lại Tuyên bố chung Maskva 1960 đã được đoàn đại biểu Việt Nam long trọng
ký kết. Nghị quyết 9 (phần đối ngoại), về thực chất là bản sao đường lối của
ĐCSTQ đã khởi đầu cho cuộc trấn áp những đảng viên bất đồng chính kiến bị chụp
mũ “chủ nghĩa xét lại hiện đại”. Cần lưu ý là Chủ tịch Hồ Chí Minh không tham
gia biểu quyết nghị quyết này.
Toàn văn Nghị quyết 9 được giữ trong tình trạng tuyệt mật,
nhưng nội dung tinh thần được phổ biến cho các đảng viên và trí thức. Vì có quá
nhiều tranh cãi nội bộ nên Đảng tuyên bố cho phép bảo lưu ý kiến khác biệt.
Thái độ cởi mở này chỉ là biện pháp để phát hiện những người không tán thành.
Nhiều ý kiến bất đồng được biểu lộ công khai như những bài
viết của các ông Hoàng Minh Chính – Viện trưởng Viện Triết học Mác-Lênin, ông
Trần Minh Việt, phó Bí thư Thành ủy kiêm phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Thành
phố Hà Nội. Những tâm thư của nhiều đảng viên lão thành gửi đến Bộ Chính trị,
phản đối đường lối đối ngoại thân Trung Quốc, tranh luận về đường lối giải
phóng miền Nam bằng bạo lực, nóng vội trong cải tạo kinh tế xã hội chủ nghĩa và
tất cả các ý kiến phát biểu trái chiều tại các cuộc học tập đều được thu thập để
rồi trấn áp khốc liệt vào cuối năm 1967.
Diễn biến sự kiện
ĐCSVN gọi tắt vụ án này là “Vụ Xét lại chống Đảng” diễn ra
năm 1967, nhưng đến tháng 3 năm 1971 mới báo cáo Bộ Chính trị, tháng 1 năm 1972
mới đưa ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 20 (khóa III). Theo ông Nguyễn
Trung Thành (vụ trưởng Vụ Bảo vệ đảng thuộc Ban tổ chức Trung ương) là người trực
tiếp thi hành thì Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn và ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ
chức Trung ương Đảng Lê Đức Thọ nhân danh Bộ Chính trị chỉ đạo việc bắt giữ và
giam cầm.
Chiến dịch khủng bố đã bắt đầu vào ngày 27 tháng 7 năm 1967
và kéo dài bằng các cuộc bắt bớ, giam cầm, quản chế nhiều năm các cán bộ trung
cao cấp mà không hề xét xử hay tuyên án.
Những người bị giam cầm nhiều năm gồm có:
– Hoàng Minh Chính tổng thư ký Đảng Dân chủ Việt Nam, tổng
thư ký Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, viện trưởng Viện Triết học.
– Đặng Kim Giang, thiếu tướng phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần
Quân đội, thứ trưởng Bộ Nông Trường.
– Vũ Đình Huỳnh bí thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vụ trưởng vụ
Lễ tân Bộ Ngoại giao, vụ trưởng Ban thanh tra Chính phủ .
– Lê Trọng Nghĩa, cục trưởng Cục 2 (Cục Tình báo quân đội).
– Lê Minh Nghĩa, chánh văn phòng Bộ Quốc phòng.
– Đỗ Đức Kiên, đại tá cục trưởng Cục tác chiến.
– Hoàng Thế Dũng, tổng biên tập Báo Quân đội Nhân Dân.
– Nguyễn Kiến Giang, tỉnh ủy viên tỉnh ủy Quảng Bình, phó
giám đốc nhà xuất bản Sự Thật.
– Trần Minh Việt phó bí thư Thành ủy Hà Nội, phó Chủ tịch Ủy
Ban Hành Chính thành phố Hà Nội. Vụ trưởng vụ Tài vụ Bộ Công nghiệp nhẹ.
– Phạm Viết phó tổng biên tập Báo Thời Mới (sau sáp nhập vào
tờ Thủ đô Hà Nội thành tờ Hà Nội Mới).
– Nguyễn Thị Ngọc Lan, giảng viên tiếng Anh, Đại học Sư phạm
Ngoại ngữ Hà Nội, vợ ông Phạm Viết.
– Phạm Kỳ Vân phó tổng biên tập Tạp chí Học Tập.
– Trần Thư, tổng thư ký báo Quân Đội Nhân Dân.
– Hồng Sĩ, trung tá Công an, đặc trách công tác phản gián, Hải
Phòng.
– Trần Châu nhà báo, Việt Nam Thông tấn xã.
– Lưu Động nhà báo, trưởng ban Nông nghiệp Báo Nhân Dân.
– Vũ Thư Hiên nhà báo, báo Ảnh Việt Nam, (con trai cả ông Vũ
Đình Huỳnh, không đảng).
– Huy Vân, đạo diễn điện ảnh.
– Phan Thế Vấn, bác sĩ, nguyên cán bộ nội thành Hà Nội.
– Vũ Huy Cương biên kịch điện ảnh (không đảng).
– Nguyễn Gia Lộc, cán bộ nghiên cứu Viện Triết học.
– Phùng Văn Mỹ, cán bộ nghiên cứu Viện Triết học.
– Bùi Ngọc Tấn, nhà báo (không đảng).
… và nhiều người khác không phải đảng viên cũng bị đảng Cộng
sản Việt Nam trấn áp với nhiều mức độ khác nhau.
Những cán bộ cấp cao không bị bắt nhưng bị khai trừ Đảng là:
– Ung Văn Khiêm bộ trưởng bộ Ngoại giao.
– Bùi Công Trừng chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước.
– Nguyễn Văn Vịnh thứ trưởng bộ Quốc phòng.
– Lê Liêm thứ trưởng bộ Văn hóa.
– Minh Tranh, phó giám đốc nhà xuất bản Sự Thật.
Một số người đang học tập, công tác ở Liên Xô đã ở lại tỵ nạn
như:
– Lê Vinh Quốc đại tá Chính ủy sư đoàn 308
– Nguyễn Minh Cần phó chủ tịch Ủy ban Hành chính Thành phố
Hà Nội
– Đỗ Văn Doãn tổng biên tập Báo Quân đội Nhân Dân.
Nhiều người không bị bắt giam đã bị đày ải, trù dập như các
ông:
– Minh Tranh phó giám đốc Nhà Xuất bản Sự Thật,
– Các nhà báo Đặng Đình Cẩn, Mai Hiến, Trần Đĩnh, Mai Luân
… Và rất nhiều người khác nữa.
Trong cuộc trấn áp này, bất kỳ người nào có quan điểm ít nhiều
khác với đường lối của đảng, đều bị quy kết là “xét lại” và bị trừng phạt với
những mức độ khác nhau.
Sự trừng phạt nặng nề còn tiếp diễn vào cuối thập niên 90 đối
với ông Nguyễn Trung Thành, người trực tiếp thụ lý vụ này khi ông cùng ông Lê Hồng
Hà (Chánh văn phòng Bộ Công an) viết kiến nghị đề nghị Bộ Chính trị xem xét giải
oan cho các nạn nhân.
Những năm tháng tù đầy oan ức và hệ lụy
Người được coi là “đầu vụ” là ông Hoàng Minh Chính. Ông bị
qui tội vì đã gửi cho hội nghị Trung ương hai bản kiến nghị, bản thứ nhất phê
phán Bộ Chính trị đã từ bỏ nguyên tắc đồng thuận với bản Tuyên bố Moskva 1960,
bản thứ hai phê phán đường lối quốc tế sai trái của Trung ương đảng Cộng sản
Trung Quốc. Lần đầu, ông bị bắt tù 6 năm rồi quản chế tại gia. Lần thứ hai ông
bị bắt giam từ 1981 đến 1987. Lần thứ ba từ 1995 đến 1996. Tổng cộng ông bị 12
năm tù giam và 8 năm quản chế. Là một sĩ quan thương binh, trong thời gian đó,
ông phải chịu nhục hình và những hành vi xúc phạm nhân phẩm.
Các ông Đặng Kim Giang, Vũ Đình Huỳnh bị qui là hai người
trong “ba kẻ đầu vụ”. Cả hai cùng với ông Trần Minh Việt,… bị giam 6 năm và chịu
thêm 3 năm lưu đầy biệt xứ, ở những địa phương khác nhau. Khi bị bắt, họ bị
giam tại xà lim Hỏa Lò, bị cùm chân và trong phòng giam không có ánh sáng. Nơi
giam cầm các ông trong nhiều năm đều là các khu biệt giam, không được giao tiếp
với bất kỳ ai.
Ông Đặng Kim Giang cũng bị bắt lần thứ hai năm 1981, trên đường
đi đến khu biệt giam ở Nam Định thì lên cơn nhồi máu cơ tim phải đưa thẳng vào
bệnh viện công an và bị giam giữ tại đây cho đến khi bệnh tình nguy kịch, trả về
nhà một thời gian thì mất.
Người bị giam lâu thứ hai là ông Vũ Thư Hiên, với 9 năm giam
liên tục trong các nhà tù và trại tập trung, có những năm bị giam chung với tù
hình sự.
Ông Phạm Viết, năm 1967 đang nghỉ công tác dài hạn để điều
trị bệnh tim thì bị bắt, giam vào xà lim Hỏa Lò. Bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, vợ ông
Viết người từng bị bắt 3 lần khi hoạt động nội thành Hà nội trong kháng chiến
chống Pháp, là người phụ nữ duy nhất trong vụ này đã bị tù 2 năm rưỡi vì tội
không giao nộp bản luận văn phó tiến sĩ “Về chủ nghĩa giáo điều ở Việt Nam” của
ông Trần Minh Việt viết tại trường đảng Liên Xô. Bản này lúc đó bị vu cho là “bản
cương lĩnh chính trị của tổ chức chống Đảng.”
Thương tâm nhất trong vụ này là ông Phạm Kỳ Vân, phó tổng
biên tập tạp chí Học Tập. Ông Kỳ Vân bị bắt khi đang điều trị sơ gan cổ chướng,
bệnh tình trở nên trầm trọng, ông được tha về để chết. Vợ ông bị chết đuối, con
gái đi Thanh niên Xung phong hy sinh trên đường Trường Sơn, con gái khác chết
khi sinh nở. Người con trai út tuyệt vọng treo cổ tự vẫn. Cả gia đình không một
người nào còn sống.
Còn rất nhiều người khác bị trấn áp theo nhiều cách khác
nhau mà chúng tôi không thể kể ra hết: bị quản thúc với những cấm đoán ngặt
nghèo, bị đưa đi cải tạo lao động, bị tước quyền công dân, tước bỏ các chính
sách đãi ngộ. Họ bị đuổi khỏi cơ quan, đơn vị công tác và còn bị cấm họ làm cả
những nghề kiếm sống thông thường như sửa chữa máy thu thanh, làm việc trong
các cơ sở in ấn, sửa chữa đồng hồ, kể cả chữa xe đạp hay cắt tóc.
Ban tổ chức Trung ương còn có chủ trương phân biệt đối xử với
con em, gia đình những người bị đàn áp: không được kết nạp vào đảng, không được
đề bạt lên vị trí quản lý, không được học các trường đại học được coi là quan
trọng, ngoài các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, thư viện…, không được
cử đi công tác học tập nước ngoài, không được phân công về công tác tại Hà Nội
và làm việc tại các bộ ngành trung ương, cơ quan quan trọng.
Hàng trăm lá đơn khiếu oan, về thực chất là những thư tố cáo
đã được gửi tới các cơ quan công quyền cao nhất của nhà nước và đảng cộng sản
trong suốt 50 năm qua, yêu cầu xét xử trước một phiên tòa công minh, đòi công
khai vụ việc trước dư luận, bồi thường cho những thiệt hại về vật chất, tổn
thương về tinh thần, phục hồi danh dự cho các nạn nhân… Tất cả những đòi hỏi
chính đáng ấy chỉ được trả lời bằng sự im lặng.
Nhận định của những nạn nhân còn sống và thế hệ kế tiếp
50 năm đã trôi qua kể từ khi những nạn nhân đầu tiên của vụ
“xét lại chống Đảng” bị bắt ngày 27 tháng 7 năm 1967. Các ông Dương Bạch Mai,
Ung Văn Khiêm, Bùi Công Trừng, Lê Liêm, Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Đặng
Kim Giang và nhiều người khác đã qua đời, mang theo đau thương và uất hận. Những
người gây ra tấn thảm kịch lớn nhất trong lịch sử đảng cộng sản Việt Nam – Lê
Duẩn, Lê Đức Thọ, Trần Quốc Hoàn, Trường Chinh… cũng đã chết.
Liên Xô, và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã tan rã.
Trung Quốc và Việt Nam tuy danh xưng là xã hội chủ nghĩa nhưng trong thực tế
đang đương đầu với các thách thức của giai đoạn tư bản bán khai, trước mọi tệ nạn
như hối mại quyền thế, tham nhũng, lạm dụng luật pháp, chênh lệch giàu nghèo,
vi phạm quyền dân chủ,… chưa từng có.
Vụ “Xét lại chống Đảng” cũng như nhiều vụ án oan đã xảy ra
trong quá khứ như: Cải cách ruộng đất, Nhân văn – Giai phẩm, Cải tạo tư bản tư
doanh, Hợp tác hóa, tập trung cải tạo những người tham gia quân lực và chính
quyền Việt Nam Cộng hòa… chưa được các thế hệ cầm quyền kế tiếp chính thức sửa
sai và nghiễm nhiên cho rằng việc xử lý trước đây là đúng.
50 năm là một thời gian quá dài cho những oan ức và bất
công. Khi sự kiện này xảy ra, những người cầm quyền hiện nay còn quá trẻ, thậm
chí có người còn chưa ra đời, hiển nhiên không phải là thủ phạm nhưng họ không
thể phủi tay cho rằng mình không có trách nhiệm giải quyết những vụ việc xảy ra
trong quá khứ. Là chính quyền kế thừa, họ phải có trách nhiệm với những việc
còn tồn tại theo đúng pháp luật, sòng phẳng với lịch sử. Đó là điều phải làm nếu
họ còn có ý muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền và lấy lại niềm tin của nhân
dân.
Bà Nguyễn Thị Mỹ, phu nhân ông Đặng Kim Giang, bà Lê Hồng Ngọc,
phu nhân ông Hoàng Minh Chính, bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, phu nhân ông Phạm Viết,
người phụ nữ duy nhất bị tù trong vụ này, ông Vũ Thư Hiên, ông Phan Thế Vấn và
nhiều nhân chứng khác còn sống trong vụ này hiện đều đã ở tuổi gần đất xa trời.
Những nhân chứng cuối cùng rồi cũng sẽ không còn, nhưng ký ức về vụ trấn áp sẽ
còn sống mãi với thời gian.
Lịch sử không thể bị tẩy xoá
Con cháu những nạn nhân đó dù chỉ là những đứa trẻ khi cha
anh bị bắt, chẳng biết “xét lại” là gì, nhưng cũng nếm đủ những khổ cực của cuộc
trấn áp tàn bạo nhắm vào thành viên gia đình những người không chịu cúi đầu. Đến
nay, họ cũng đã về già nhưng mãi mãi không thể nào quên được những năm tháng
đau thương ấy.
Cho tới nay chúng tôi vẫn còn như thấy trước mắt hình ảnh tướng
Đặng Kim Giang, chỉ huy hậu cần chiến dịch Điện Biên Phủ, nằm trong chiếc quan
tài hở hoác dưới ngôi nhà tranh dột nát ở ngõ Chùa Liên Phái. Bà vợ ông vừa
khóc vừa giã gạch non trộn với cơm nếp, trát kín những kẽ hở của chiếc quan tài
ấy.
Chúng tôi không thể quên hình ảnh ông Vũ Đình Huỳnh, nguyên
Bí thư của chủ tịch Hồ Chí Minh, thành viên Việt Nam Cách mạng Đồng chí hội từ
năm 1925, trước khi ĐCSVN ra đời, bị công an dùng dây thừng trói giật cánh khuỷu
khi còng sắt bập vào cổ tay ứa máu mà không vừa. Khi đó ông đã về hưu được vài
năm.
Chúng tôi không thể quên nấm mồ của ông Phạm Viết, nằm cô quạnh
trên sườn đồi heo hút ở cạnh nhà tù Phú Sơn, Thái Nguyên. Ông là người sỹ quan
thương binh đã chiến đấu nhiều năm quên mình trong nội thành Hà Nội. Ở tuổi 44,
ông lìa đời mà không được có một người thân bên cạnh dù vợ con đã khẩn thiết
yêu cầu được chăm sóc ông những ngày cuối đời.
Chúng tôi mãi mãi không thể quên những gì đã thấy, đã biết,
đã ghi nhớ
Và nhân đây chúng tôi cũng muốn gửi tới rất nhiều người đã đồng
cảm và giúp đỡ chúng tôi trong suốt nửa thế kỷ qua lời cảm ơn chân thành. Sự
chia sẻ trong tình người dù âm thầm hay công khai đã giúp chúng tôi có thêm nghị
lực sống.
Bản lên tiếng này cũng là một nén hương muộn cho những nạn
nhân đã khuất. Nhưng máu thịt của họ, tinh thần của họ vẫn còn đây, trong chúng
tôi.
Chúng tôi cũng gửi bản lên tiếng này tới các vị đứng đầu Đảng
và Nhà nước để nói rằng những thế hệ nối tiếp của các nạn nhân trong “vụ Xét lại
chống Đảng” sẽ còn tiếp tục lên tiếng cho tới khi vụ này được công khai trước
toàn dân, cho tới khi lẽ công bằng được lập lại cho những nạn nhân còn sống và
đã khuất.
Trước sau, lịch sử sẽ phán xét một cách công bằng
Dưới đây là danh sách những nạn nhân còn sống và gia đình
cũng như thân nhân các nạn nhân đã khuất cùng ký tên vào bản lên tiếng này.
Danh sách này còn kéo dài do không có điều kiện liên hệ trực tiếp.
– Bà Nguyễn Thị Mỹ, phu nhân ông Đặng Kim Giang và gia đình.
– Bà Lê Hồng Ngọc, phu nhân ông Hoàng Minh Chính và gia
đình.
– Bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, phu nhân ông Phạm Viết và gia đình
– Bà Đinh Thị Bích Đào, phu nhân ông Phùng Văn Mỹ và gia
đình.
– Bà Nguyễn Thị Oanh, phu nhân ông Lưu Động (tên thật là
Nguyễn Xuân Canh) và gia đình.
– Ông Vũ Thư Hiên, con trai ông Vũ Đình Huỳnh và gia đình.
– Ông Phan Thế Vấn và gia đình.
– Ông Trần Đĩnh và gia đình
– Ông Trần Việt Trung, con trai ông Trần Châu và gia đình.
– Bà Minh Sơn, con gái ông Trần Minh Việt và gia đình
– Nguyễn Thị Giáng Hương, con gái ông Trần Thư và gia đình.
Nơi gửi:
Gửi tới mọi người Việt Nam và các ông, bà:
– Ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam
– Bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt
Nam
– Ông Trần Đại Quang, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam
– Ông Nguyến Xuân Phúc, Thủ tướng chính phủ nước CHXHCN Việt
Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét