Khi đọc những câu hỏi “Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn
năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam?”. Hoặc “Người Việt
Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây?(1), nhiều người nghĩ chắc
là ý kiến của những anh chàng người Việt nặng đầu óc dân tộc chủ nghĩa. Nhưng
thật bất ngờ, những câu hỏi này và tương tự như vậy hiện là những chủ đề nóng của
các diễn đàn tranh luận trên mạng Internet của người Trung Hoa, bằng tiếng
Trung chứ không phải của người Việt.
Họ đã chất vấn nhau, đại loại thế này: Hơn một nghìn năm,
trước khi nhà Tống lên ngôi, Giao Châu là thuộc Trung Hoa, dù chị em họ Trưng
có nổi dậy cũng chỉ mấy năm là dẹp yên. Thế mà vì sao từ đời Tống trở đi các
triều đại Trung Hoa không thể thu phục nổi Việt Nam. Hơn nữa, dân tộc Việt Nam,
người Kinh ấy, từ đâu mà ra, hình thành từ lúc nào? Người Hán chúng ta từ cổ
xưa đã có sức đồng hóa cực mạnh. Số dân tộc đã bị Hán tộc đồng hóa không đếm xuể.
Tại sao chừng ấy năm đô hộ vậy mà không đồng hóa nổi Việt Nam… Nếu An Nam là
thuộc Trung Quốc từ thời đó, liệu bây giờ quần đảo Nam Sa (VN gọi là Trường Sa)
có thành vấn đề không? Việt Nam có còn chiếm được nhiều đảo ở Nam Sa như bây giờ
không?
Là người Việt Nam, chắc ai cũng muốn chính mình tìm câu trả
lời cho những câu hỏi thú vị đó. Chúng ta từng nghe nói rằng, từ xa xưa một dải
giang sơn mênh mông từ Nam sông Dương Tử trở về Nam là nơi các tộc dân Việt
sinh sống và phát triển nền văn minh lúa nước rực rỡ. Thế rồi ngày nay, hầu hết
đều trở thành lãnh thổ và giang sơn của người Hán, dùng Hán ngữ và văn hóa Hán.
Quá trình đó người ta quen gọi là Hán hóa. Vì vậy nhìn lại lịch sử Bách Việt và
quá trình Hán hóa Bách Việt là một cách ôn cố tri tân hữu ích. Đáng tiếc là thời
xa xưa đó lịch sử chủ yếu ghi chép lại bằng Hán ngữ cổ ở Trung Hoa, không dễ tiếp
cận với đa số hiện nay. Vì lẽ đó người viết bài này cố gắng tóm tắt những gì mà
sử sách cổ còn ghi lại, kết hợp với những tài liệu khoa học đã công bố của một
số học giả uy tín trên thế giới, ngõ hầu cung cấp một vài thông tin hữu ích,
nhiều chiều, kể cả còn đang tranh cãi.
Bách Việt là ai và ở đâu?
Vào thời thượng cổ, từ đời nhà Thương 商朝 (khoảng
1600-1046 TCN), trong văn tự thì chỉ có một chữ Việt 戉 (nghĩa là cái rìu), cũng
là tên chung cho tộc người ở phía Nam không phải là người Trung Hoa, do tộc người
này sử dụng rìu (Việt) làm công cụ. Về sau, vào thời Xuân Thu Chiến quốc 春秋 戰國
(722-221 TCN) bắt đầu trong văn tự có hai chữ Việt là 越 và 粤, đều
chỉ bộ tộc Việt, dùng như nhau (Sách cổ viết là 越粵互通-Việt Việt Hỗ Thông), ta hay gọi 越 là Việt
bộ tẩu 走
(đi, chạy) và Việt 粤 là Việt bộ mễ 米-(lúa)2.
Trong Hán ngữ cận, hiện đại, hai chữ Việt này (có thể từ sau
đời Minh) thì dùng có phân biệt rõ ràng. Chữ Việt bộ tẩu 越 là
ghi tên tộc Việt của nước Việt có lãnh thổ ở vùng Bắc Triết Giang, ngày nay là
vùng Thượng Hải, Ninh Ba, Thiệu Hưng (Cối Kê 會稽 xưa). Một loại ca kịch cổ ở vùng
này vẫn còn tên là Việt Kịch 越剧. Chữ Việt bộ tẩu này cũng là tên của tộc Nam Việt (Triệu Đà)
Âu Việt và Lạc Việt (Việt Nam ngày nay), Mân Việt (Phúc Kiến), Điền Việt (Vân
Nam, Quảng Tây)… Chữ Việt 粤 bộ mễ 米 ngày nay dùng ghi tên cư dân vùng Quảng Đông, Hồng Kong,
Ma Cao… những cư dân này sử dụng ngôn ngữ gọi là tiếng Quảng Đông (Cantonese).
(Ai đến Quảng Châu đều thấy biển xe ô tô đều bắt đầu bằng chữ 粤 là vì
vậy).
Bởi vì xưa có đến hàng trăm tộc Việt, cho nên sử sách gọi
chung là Bách Việt 百越 hoặc 百粤. Tên gọi Bách Việt xuất hiện trong văn sách lần đầu tiên
trong bộ Lã thị Xuân Thu 吕氏春秋 của Lã Bất Vi 呂不韋 (291–235 TCN) thời nhà Tần.
Trong lịch sử Trung Hoa, toàn bộ vùng đất Giang Nam (tên gọi
vùng Nam Sông Dương Tử), rộng bảy tám ngàn dặm từ Giao Chỉ đến Cối Kê, từ trước
thời Tần Hán đều là nơi cư ngụ của các tộc Bách Việt.
Thời nhà Hạ gọi là Vu Việt 于越, đời Thương gọi là Man Việt 蛮越 hoặc
Nam Việt 南越,
đời Chu gọi là Dương Việt 扬越, Kinh Việt 荆越, từ thời Chiến quốc gọi là Bách Việt百越.
Sách Lộ Sử của La Bí (1131 – 1189) người đời Tống viết3: Việt
thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu ngai, Thả âu, Tây âu, Cung nhân, Mục thâm, Tồi
phu, Cầm nhân, Thương ngô, Việt khu, Quế quốc, Tổn tử, Sản lí (Tây Song Bản Nạp),
Hải quý, Cửu khuẩn, Kê dư, Bắc đái, Phó cú,
Khu ngô (Cú ngô)…, gọi là Bách Việt.
Hán Hóa Bách Việt – Giai đoạn từ thượng cổ đến trước thời Tần-Hán
Gọi Hán hóa chỉ là để cho tiện thôi, thực ra không đúng, vì
lúc này làm gì đã có nhà Hán. Hai nước Ngô – Việt là những tộc Bách Việt được
ghi chép rất sớm trong sử sách. Nước Ngô 吴国,còn gọi là Cú Ngô 句吴,
Công Ngô 工吴,攻吾… lập quốc vào thời Chu Vũ Vương
(thế kỷ 12 TCN), kinh đô ở Tô Châu 苏州 ngày nay, từ thủy tổ là Ngô Thái Bá 吳太伯 truyền đến Phù Sai夫差 thì
bị diệt vong bởi nước Việt (473 TCN). Thực ra ghi chép sớm nhất trong sử sách
là Vu Việt 于越,
tiền thân của nước Việt 越 国 thời Chiến quốc. Nước Việt đã tồn tại muộn nhất cũng từ
thời nhà Thương, không tham gia vào sự kiện Vũ Vương Phạt Trụ (1046 TCN), nhưng
sử có ghi là khá lâu trước đó đã làm tân khách của Chu Thành Vương 周成王(1132
– 1083 TCN). Nước Việt đã có một văn hóa dân tộc đặc sắc, gọi là Văn hóa Mã Kiều
馬橋文化,
mà các chứng tích đã tìm thấy khi khai quật di chỉ Thái Hồ 太湖地區.
Nước Việt định đô ở Cối Kê 會稽 (Thiệu Hưng ngày nay) truyền đến đời Câu Tiễn句踐 (496
– 464 TCN) thì bành trướng lên phía Bắc, năm 473 TCN sau khi diệt nước Ngô, mở
rộng bờ cõi Bắc chiếm Giang Tô 江蘇, Nam đoạt Mân Đài 閩台 (tức Phúc Kiến ngày nay), Đông
giáp Đông Hải 東海, Tây đến Hoàn Nam 皖南
(phía Nam An Huy ngày nay), hùng cứ một cõi Đông Nam. Đến năm 306 TCN, nước Sở 楚國 nhân
nước Việt, triều vua Vô Cương, nội loạn, bèn liên kết với nước Tề 齊國 tiến
chiếm nước Việt, đổi thành quận Giang Đông, nước Việt tuyệt diệt và bị Sở hóa từ
đó. Những sự kiện này được ghi chép tỉ mỉ trong bộ sử Ngô Việt Xuân Thu 吳越春秋
do Triệu Diệp 赵晔
thời Đông Hán soạn (~năm 25). Các nhà khoa học thế giới ngày nay cũng đã phục dựng
đầy đủ lịch sử này, ví dụ xem Eric Henry4.
Đến đây cần nói rõ, Sở là gốc Hoa Hạ (sau này gọi là Hán)
hay là Bách Việt, hiện còn nhiều tranh cãi. Dân Hoa Hạ (chính là tộc Hán sau
này) nhận mình là con cháu của Tam Hoàng, Ngũ Đế. Tam Hoàng thì rất thần tiên,
mơ hồ, Ngũ Đế có vẻ cụ thể hơn. Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên5 thì đó là năm chi:
Hoàng Đế (黃帝),
Chuyên Húc (顓頊),
Đế Cốc (帝嚳),
Đế Nghiêu (帝堯),
Đế Thuấn (帝舜).
Dân nước Sở tự nhận thuộc chi Chuyên Húc, họ Cao Dương 高阳 tức là tộc Hoa Hạ
(Hán). Đất nước Sở nằm ở đoạn giữa sông Trường Giang, vùng Nam Bắc Hồ Động
Đình, quen gọi là vùng Kinh Sở (Hồ Bắc – Hồ Nam của Trung Hoa ngày nay). Vùng
Kinh Sở nằm chồng lấn phía Nam lưu vực sông Hoài sông Vị của dân Trung Nguyên
Hoa Hạ. Đó là vùng đất đầu tiên mà một chi của dân Hoa Hạ (chi Chuyên Húc) thiên
di xuống. Nhà thơ Khuất Nguyên (340 – 278 TCN) người nước Sở, mở đầu bài thơ Ly
Tao đã viết6: Bá Dung nhớ cha ta thuở nọ, /Vốn dòng vua về họ Cao Dương(Nhượng
Tống dịch thơ). Trước khi con cháu Cao Dương nam thiên đến đây, dân bản địa là
tộc nào? Nước Sở lập quốc vào cuối đời Thương đầu đời Chu (1042 TCN). Sách Sử
Ký – thiên Sở Thế gia viết rằng người Sở là dân Man (Sở Man), vua Sở nhận mình
là dân Man Di7. Man là chữ người Hoa Hạ gọi dân miền Nam không phải là Trung
Hoa. Những khai quật khảo cổ ở vùng Kinh Sở gần đây cũng cho thấy rằng thực ra
cư dân tối cổ ở vùng Kinh Sở có nguồn gốc Tam Miêu, một dân tộc thuộc nhóm Bách
Việt. Đây có thể là nhóm Âu Việt ở phía Tây nên còn gọi là tộc Tây Âu, để phân
biệt với Đông Âu là tộc Âu Việt phía Đông, tức vùng Mân – Đài (Phúc Kiến). Tộc
Tây Âu, theo các nhà dân tộc học, có thể là tổ tiên các tộc H’mông, Lào, Miến,
Thái… hiện nay, ít nhiều cũng có cùng huyết thống người Việt Nam cổ. Như vậy là
quá trình Trung Hoa hóa dân Man (Miêu tộc bản địa) đã bắt đầu từ cuối Thương đầu
đời Chu rồi. Có thể tạm gọi đó là đợt đồng hóa thứ nhất.
Sự Trung Hoa hóa theo thế lực nước Sở, bành trướng đến Trùng
Khánh, Quý Châu, về sau sang tiếp phía Đông, trở thành một trong thất hùng thời
Chiến quốc. Đặc biệt là quý tộc Sở cổ đều có họ Hùng (熊 – con gấu), vua Sở là
Hùng Vương, phải chăng có liên hệ gì đó đến Hùng Vương ở Việt Nam, chỉ khác chữ
Hán viết 雄
– hùng mạnh, (trong sử Trung Hoa cổ không tìm thấy ghi Hùng Vương 雄 này,
có lẽ đây là do các nhà Nho Việt Nam viết lại sau này!). Tóm lại đến thời Khuất
Nguyên, rồi sau đó là lúc Sở diệt Việt phía Đông, thì Sở đã hoàn toàn biến
thành dân Trung Hoa, và quá trình Trung Hoa hóa Ngô – Việt là quá trình đồng
hóa thứ hai, tiến hành thông qua nước Sở.
Các nhà khoa học Nhật, Mỹ, đã có nhiều phát hiện, chứng minh
nền văn minh Ngô Việt sau khi nước Việt bị diệt và Trung Hoa hóa (đúng hơn là Sở
hóa), đã theo dòng người Ngô Việt chạy ra biển sang Nhật Bản (tiếng Nhật Bản đọc
Hán tự theo kiểu nước Ngô, nên gọi là ごおん-Go On- Ngô âm 呉音). Nền
văn minh đó chủ yếu theo bộ phận tinh hoa của dân Ngô Việt chạy xuống phía Nam
hợp lưu cùng Việt bản địa, thành ra văn minh Việt kéo từ Lĩnh Nam (phía Nam dãy
Ngũ Lĩnh – tức Bắc Lưỡng Quảng ngày nay) đến Giao Chỉ. Theo phát hiện của Jerry
Norman và Tsu-lin Mei (Washington University và Cornell University) thì nhiều từ
cổ của tộc Việt nước Ngô Việt hiện vẫn thông dụng trong tiếng Việt ngày nay, ví
dụ các từ: chết; chó, đồng (trong đồng cốt), sông, khái (hổ), ngà (trong ngà
voi), con (trong con cái), ruồi, đằm (trong đằm ướt), sam (con sam), biết; bọt
, bèo…8 Điều này chứng tỏ rằng dân Lạc Việt ít nhiều có cùng huyết thống với
dân Ngô Việt xưa. (Xem bản đồ).
Hán hóa Bách Việt- Giai đoạn sau thời Tần-Hán
Cho đến trước khi Tần Thủy Hoàng diệt được sáu nước, dẹp bỏ
nhà Chu, thống nhất Trung Hoa (221 TCN) thì dân Hoa Hạ (Hán tộc) chỉ chiếm lãnh
và đồng hóa được dải đất từ Hoàng Hà xuống đến Ngũ Lĩnh9, còn từ Ngũ Lĩnh trở về
Nam (Lưỡng Quảng, Giao Chỉ, Hải Nam… gọi tắt là Lĩnh Nam) thuộc về Âu Việt (gọi
chung Tây Âu và Đông Âu) và Lạc Việt. Từ Kinh Sở trở về Tây, Tây Nam (Vân Nam)
vẫn còn thuộc về Điền Việt, Tây Âu, Đại Lý…
Vùng Bách Việt phía Tây Nam này (Vân Nam) thì mãi đến thế kỷ
12 còn độc lập, dù người Hán có tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm lẻ tẻ.
Chỉ sau khi Mông Cổ chiếm Đại Lý (1253), Vân Nam, rồi sau đó chiếm nốt Trung
Hoa, lập ra nhà Nguyên, thì Vân Nam mới nhập vào Trung Hoa. Năm 1381, Minh Thái
Tổ mới bình định xong Vân Nam và cuộc Hán hóa hoàn tất rất nhanh. Ngày nay hơn
61% cư dân Vân Nam là người Hán.
Vùng Lĩnh Nam chiếm làm đất Trung Hoa từ thời Tần – Hán,
nhưng quá trình Hán hóa thì khá khó khăn và cho đến nay vẫn chưa xong hết (!).
Cổ sử Trung Hoa chép thì Lĩnh Nam có nhiều bộ tộc Việt lập quốc như Tây Âu, Lạc
Việt… có nước Dạ Lang (nhưng không thấy chép Văn Lang!). Âu và Lạc10 là một tộc
Việt hay là hai tộc Việt khác nhau, cho đến tận ngày nay vẫn còn tranh cãi.
Sách “Hoài Nam Tử” (139 TCN) thì chỉ viết có Tây Âu11 không có nói đến Lạc chỗ
nào cả. Sách “Sử Ký” (94 TCN) muộn hơn một ít thì cũng có viết Âu, không tìm thấy
chữ Lạc đứng riêng một mình, mà luôn luôn chỉ có chép Âu Lạc liền nhau12. Tuy
nhiên trong Lã thị Xuân Thu (291–235 TCN) sớm nhất thì có chép” Việt Lạc-越骆”13. Việt Lạc rất có thể chính là
nước Lạc Việt trong sử sách sau này, Việt Lạc là ghi âm trực tiếp từ ngôn ngữ
người Việt, theo ngữ pháp Việt, còn sau này ghi Lạc Việt là ghi chép qua thông
dịch sang Hán Ngữ, theo ngữ pháp Hán.
Luận theo sử sách chép, có thể thời tiền Tần thì Âu và Lạc
là hai chi Việt khác nhau. Thời kỳ chiến đấu chống lại Tần thì có thể hai chi
Việt này liên minh lại với nhau thành một khối Âu Lạc. Lúc đó trung tâm là ở
Nam Trung Hoa, vùng Vũ Minh Mã đầu (Nam Ninh – Quảng Tây ngày nay). Chỉ sau khi
Hán Vũ Đế bình Nam Việt của Triệu Đà thì hai chi này mới lại phân chia ra, và
trung tâm di về vùng quanh Hà Nội ngày nay.
Đồng thời với nước Lạc Việt có nước Tây Âu hay Âu Việt mà
người đứng đầu trong sử chép là Thục Phán. Tuy nhiên Âu Việt lập quốc lúc nào
và Thục Phán từ đâu ra thì sử sách không ghi rõ. Rất nhiều ý kiến cho rằng Thục
Phán là hậu duệ của vương triều nước Thục. Quả thực sử có chép một quốc gia tên
là Thục Quốc, ở Tây Nam Trung Hoa ngày nay. Thường Cừ (347)người
đời Tấn viết trong Sách “Hoa Dương Quốc Chí”14: “Nước Thục Đông giáp nước Ba,
Nam giáp Việt, Bắc phân giới với nước Tần, Tây tựa Nga Ba”. Vị trí địa lý như vậy
nên cư dân ở đây bao gồm người Khương, người Việt, người Hoa Hạ. Dòng họ Khai
Minh làm vua nước Thục, truyền được 12 đời, đến năm 316 TCN đời Chu Thận Vương
thì bị nhà Tần diệt15, hậu duệ chạy về phương Nam. Sử chép đến đây thì đứt đoạn,
không nói gì tiếp. Cho nên về sau nói Thục Phán là hậu duệ Khai Minh thị, cha
Thục Phán là Khai Minh Chế chiếm lưu vực Diệp Du Thủy (tức thượng nguồn sông Hồng)16,
xưng là An Tri Vương vua nước Tây Âu, sau truyền ngôi cho con là Phán, cũng chỉ
là một giả thuyết, chép lại theo truyền thuyết của tộc dân Đại Y17.
Lúc này cũng là thời kỳ theo truyền thuyết là có nước Văn
Lang ở phía trung và hạ lưu sông Hồng (trong cổ sử Trung Hoa không có tên nước
Văn Lang, chỉ có tên một nước là Dạ Lang, liệu có liên quan đến Văn Lang
không?), do dòng họ Hùng làm vua. Việc Thục Phán là hậu duệ nước Thục, cũng như
nước Văn Lang có vua Hùng trị vì 18 đời trong sử An Nam là ghi lại theo truyền
thuyết. Tuy nhiên Thục Vương Tử tên Phán, Hùng Vương vua Lạc Việt, Thục diệt
Hùng Vương chiếm lãnh thổ, xưng là An Dương Vương thì có ghi trong sử cổ Trung
Hoa từ đầu Công nguyên.
Theo quyển “Việt sử lược”18, của tác giả không rõ tên, có lẽ
là người Việt Nam khắc in ở Trung Hoa vào quãng cuối Nguyên đầu đời Minh
(~1360), có viết về nước Văn Lang, vua là Đối Vương 碓王, sau bị Thục Phán đánh
đuổi, Phán xưng là An Dương Vương.
Sách cổ “Thủy kinh chú” dẫn lại lời ghi trong “Giao châu ngoại
vực ký” rằng19 “… Thục Vương Tử dẫn binh tướng ba vạn đánh lại Lạc Vương 雒王, Lạc
hầu 雒侯,
thu phục các Lạc Tướng. Rồi đó Thục Vương Tử xưng là An Dương Vương”. Sách “Cựu
Đường thư” dẫn lại “Nam Việt chí” chép20“Đất Giao Chỉ vô cùng màu mỡ, xưa có
vua xưng là Hùng Vương 雄王, có Lạc hầu phò tá. Thục Vương Tử dẫn quân tướng ba vạn
tiến đánh, diệt được Hùng Vương. Thục xưng làm An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ”.
Như vậy thì sử sách có ba tên gọi cho vua nước Lạc Việt: Lạc Vương, Hùng Vương,
Đối Vương. Có nhiều ý kiến cho rằng ba tên gọi này là một, chính là Lạc Vương,
các tên khác do về sau sao chép nhầm chữ Lạc 雒 của Hán ngữ mà thành21. Dầu sao thì
cũng có hai lý giải về truyền thuyết danh xưng Hùng Vương, một là dòng dõi họ
Hùng Vương nước Sở, hai là Lạc Vương vua của dân Lạc Việt. Dù tên tuổi đúng sai
thế nào, thì Hùng Vương không chỉ thuần túy là truyền thuyết của Việt Nam, mà
cũng có ghi trong cổ sử Trung Hoa. Nhân vật Thục Phán tuy nguồn cội chưa xác định,
nhưng cũng có thật, đánh chiếm Lạc Việt lập nên nước Âu Lạc xưng là An Dương
Vương cũng là có thật, có ghi trong chính sử không chỉ của Việt Nam22.
Tần diệt Sở, rồi đánh chiếm Lĩnh Nam, Đô Úy Triệu Đà được Tần
cắt cử quản lĩnh Quế Lâm, Tượng Quận. Nhân khi nơi nơi nổi lên chống Tần, năm
204 TCN Triệu Đà bèn chiếm Lĩnh Nam lập nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung
(Quảng Châu) và đánh chiếm Âu Lạc. Sách “Giao Châu ngoại vực ký” chép: “Nam Việt
Vương Úy Đà cử binh đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông
phù tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”23.
Sách “Thái Bình Ngự Lãm” dẫn “Nhật Nam truyện” còn chép phóng đại hơn, nỏ một
phát giết ba vạn người và còn kể tỉ mỉ chuyện tình Mỵ Châu Trọng Thủy, chuyện mất
nỏ thần, dẫn đến An Dương Vương thất bại24. Nước Âu Lạc từ đó nhập vào nước Nam
Việt25. Triệu Đà lập nước Nam Việt năm 203 TCN, giữ độc lập với nhà Hán được 92
năm, truyền 5 đời vua, đến đời Triệu Kiến Đức và thừa tướng Lữ Gia26 thì mất nước
vào tay Hán Vũ Đế năm 111 TCN. Một dải Lĩnh Nam và Đông Hải bị Hán chiếm và Hán
hóa kéo dài hơn ngàn năm, ngoại trừ Lạc Việt, còn lại hoàn toàn trở thành Hán.
Lạc Việt, sau hơn 1000 năm nô lệ và Hán hóa, vẫn giữ được bản sắc và nền văn
minh Việt, cuối cùng thì giành được độc lập và trở thành Đại Cồ Việt, Đại Việt,
Nam Việt và Việt Nam đến tận ngày nay. Đó là một trường hợp duy nhất mà Trung
Hoa không thể Hán hóa được.
Vì sao Đại Việt không bị Hán hóa?
Đồng hóa dân tộc (national assimilation) gồm: 1 – Đồng hóa tự
nhiên: đây là một xu hướng tự nhiên trong tiến trình lịch sử loài người. 2 – Đồng
hóa cưỡng chế: sự cưỡng bức một dân tộc bị trị chấp nhận ngôn ngữ, chữ viết,
phong tục, tập quán của dân tộc thống trị; đây là một tội ác.27 Người Hán đã thực
hiện cả hai biện pháp đồng hóa này hơn một ngàn năm mà Đại Việt vẫn không bị đồng
hóa, người Trung Hoa ngày nay tìm mọi lý lẽ để biện minh nhưng chính họ cũng
không thấy thuyết phục lắm. Chẳng hạn:
Việt Nam ở xa Trung Nguyên, núi sông cách trở không tiện đồng
hóa. Phản bác lại: Tại sao Vân Nam cũng xa, núi sông cách trở hơn nhiều mà chỉ
trong mấy trăm năm đã bị đồng hóa hoàn toàn.
Việt Nam ở phương Nam, nóng ẩm, người Hán không ở được. Thế
tại sao Hải Nam cũng như vậy mà lại ở được, đồng hóa xong rồi.
Tại vì số lượng người Hán di dân xuống Việt Nam ít. Thực ra,
không có bằng chứng nào là ít hơn Hải Nam, Vân Nam cả. Chỉ riêng số quan lại
cai trị và số quân chiếm đóng trong hơn một ngàn năm, cũng không ít hơn số dân
bản địa. Chỉ có thể hiểu người Hán ở đây đã bị Việt hóa. Cũng có ý kiến cực
đoan bênh vực, nói rằng thực ra đã Hán hóa dân Việt rồi nhưng từ sau năm 1945,
Việt Nam đã thanh lọc lại hết!
Cũng có một số kiến giải của người Trung Hoa bình thường
ngày nay, xem ra cũng ít nhiều có lý, ví như:
Người Kinh có ba nguồn gốc: Người Lạc Việt, Người Thục, Người
Hán. Do vậy người Kinh hấp thụ được tinh hoa của ba chủng tộc nên trở thành một
tộc người ưu tú.
Người Hán ở Việt Nam kể cả các tầng lớp cai trị không đồng
hóa được người Kinh, trái lại bị đồng hóa ngược trở thành người Việt. Người
Kinh là một tộc người có năng lực đồng hóa mạnh, bằng nếu không nói là còn hơn
người Hán. Hãy xem họ mở rộng về phía Nam thì rõ.
Nhưng đó chỉ là những lý do bề ngoài mà những người bình thường
có thể nhận thấy được. Thực ra, theo các nhà chuyên môn, đồng hóa dân tộc là một
vấn đề khoa học lớn, rất nhạy cảm và vẫn chưa có được một lý thuyết nào đứng vững
cả, vì vậy tạm thời không bàn đến lý luận trong bài này. Thông thường đồng hóa
dân tộc là một sự tổng hòa gồm:
Đồng hóa chủng tộc, thường được thực hiện bằng một cuộc
chinh phục và kẻ chinh phục hoặc diệt chủng dân bị chinh phục, hoặc xua đuổi
dân bị chinh phục để thay thế bằng cư dân của phía chinh phục, hoặc pha loãng
huyết thống.
Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng.
Đồng hóa về tổ chức cộng đồng, xã hội.
(Về vấn đề Văn Hóa, Ngôn Ngữ, Tín Ngưỡng, đều là những yếu tố
bảo tồn dân tộc Việt, xin dành cho bài sau).
Sự đồng hóa dân tộc sẽ khó được thực hiện.
Nếu một dân tộc có sức sống sinh học và xã hội mãnh liệt thì
sự đồng hóa chủng tộc khó thành công, ví dụ điển hình là dân tộc Do Thái.
Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng phụ thuộc vào trình độ văn
minh của dân tộc. Một dân tộc mạnh về chinh chiến, có thể chiến thắng trong cuộc
chinh phục, nhưng nếu trình độ văn minh thấp hơn thì sẽ bị kẻ bại trận đồng
hóa, điển hình như tộc Hung Nô, Nữ Chân, Mãn Châu… đều chiến thắng người Hán
nhưng lại bị Hán hóa.
Khi một cộng đồng dân tộc có tổ chức tốt, cố kết các thành
viên bền chặt, thì dân tộc đó rất khó bị đồng hóa.
Nhìn lại thì thấy người Việt (người Kinh) có đủ cả ba yếu tố
1,2,3: Người Kinh hiện nay là nơi tập hợp các thành phần ưu tú nhất của Bách Việt,
bởi lẽ khi Bách Việt bị Hán hóa, các thành phần ưu tú, tinh hoa trong xã hội Việt
là mục tiêu tàn sát của người Hán, do đó các thành phần này phải tháo chạy, và
nơi dung nạp họ là mảnh đất cuối trời Bách Việt, tức Việt Nam ngày nay. Hãy xem
thí dụ về ngôn ngữ Ngô Việt còn lưu lại trong tiếng Việt (như đã nói ở trên),
đó là một bằng chứng cho sự dịch chuyển của người Ngô-Việt xuống đây. Vì vậy tộc
người Kinh có sức sống mãnh liệt.
Tinh hoa của văn minh Bách Việt được cô đọng lại ở người
Kinh, chắc chắn không kém nền văn minh Hoa Hạ. Người Việt dù không có văn tự
riêng (hay có mà bị xóa sạch sau ngàn năm nô lệ) nhưng vẫn phát triển và bảo tồn
được ngôn ngữ dân tộc, dù phải mượn Hán Ngữ để ghi chép, thì thật là một kỳ
tích, chẳng kém gì người Do Thái vẫn giữ được tiếng Do Thái dù bị diệt chủng và
xua đuổi hai ngàn năm.
Tổ chức xã hội của tộc Việt, điển hình là làng xã đã cố kết
cộng đồng rất chặt. Tổ chức nhà nước cũng có rất sớm, từ thời Chiến quốc, do đó
rất khó phá vỡ, nó tồn tại dấu tích sau khi khi đã độc lập. Hãy nhớ đến Hội Nghị
Diên Hồng thời Trần để thấy tinh thần của tổ chức xã hội gắn kết người dân với
triều đình chặt chẽ đến mức nào. Ngay cả một vương triều thất thế, bị truy đuổi
như Triều Mạc, cũng không bán rẻ đất nước cho ngoại bang. Năm 1594, Mạc Ngọc Liễn
chiếm giữ Vạn Ninh, trước khi chết để di chúc cho Mạc Kính Cung: “Nay vận khí
nhà Mạc đã hết, họ Lê lại phục hưng, đó là số trời, dân ta vô tội mà để phải mắc
nợ binh đao, sao lại nỡ thế… Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để
dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”28.
Quân Minh đầu TK 15 cũng khó mà có thể chiếm được Đại Việt
làm quận huyện nếu không có những nhóm quý tộc như nhóm Mạc Thúy, vì quyền lợi
riêng bán rẻ dân tộc cho người Minh. Nên biết Mạc Thúy là hậu duệ của danh nhân
Mạc Đĩnh Chi, một đại thần nhà Trần… Nhà Thanh không thể chiếm Thăng Long nếu
không có vua quan bán nước Lê Chiêu Thống, tiếc thay y lại là dòng dõi của anh
hùng dân tộc Lê Lợi…
Than ôi! truyền thống thì hào hùng rực rỡ, tổ tiên phải đổ
bao mồ hôi, xương máu mới có, nhưng bán rẻ nó đi thì thật dễ dàng. May sao tự
ngàn xưa số những kẻ bán rẻ dân tộc như vậy là vô cùng nhỏ trong cộng đồng người
Việt.
*
Người viết bài này xin bày tỏ lời cảm ơn nhà Hán học, dịch
giả Trần Đình Hiến về những thảo luận, góp ý quý giá cho phần dịch các đoạn
trích trong các sách sử cổ viết bằng văn ngôn trên đây.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét