Hình: Lớp học của Đông Kinh Nghĩa Thục. Nguồn:Internet
Cách đây 110 năm, một số nhà trí thức yêu nước tiên tiến đã
thành lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT) tại Hà Nội, khởi đầu một phong
trào yêu nước chống phong kiến chống thực dân với tính chất hoàn toàn mới chưa
từng thấy trong lịch sử Việt Nam. Ở đây, Nghĩa thục là trường tư thục (do tư
nhân mở) vì nghĩa, tức vì lợi ích chung, không vì tư lợi, không thu tiền của
người học. Đông Kinh là tên thành Thăng Long thời Hồ Quý Ly, tức Hà Nội hiện
nay, địa điểm đặt trường.
ĐKNT do một nhóm sĩ phu Bắc Hà đồng sáng lập: Lương Văn Can
(Thục trưởng, tức Hiệu trưởng), Nguyễn Quyền (Giám học) và Lê Đại, Nguyễn Hữu Cầu,
Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Kỳ, Dương Bá Trạc, Vũ Hoành v.v… Họ đều là các nhà Nho,
trong đó cử nhân Dương Bá Trạc mới 23 tuổi, cử nhân Nguyễn Hữu Cầu 28 tuổi, nhiều
tuổi nhất là Lương Văn Can 53 tuổi.
Do có cùng chí hướng và nhận thức, lại tiếp thu trào lưu duy
tân từ Nhật Bản, Trung Quốc và tư tưởng tiên tiến của hai nhà đại cách mạng
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, nên họ đã tự tìm đến với nhau họp bàn và nhất
trí chủ trương noi gương Nhật Bản, trước hết mở trường dạy cho đông đảo đồng
bào các kiến thức cần thiết nhất để làm cho dân giàu nước mạnh, cuối cùng tiến
tới mưu đồ sự nghiệp giải phóng đất nước. Hai cụ Phan có liên hệ chặt chẽ với
nhóm này. Do từng thăm trường Khánh ứng Nghĩa thục (Keio Gijuku, lập năm 1868)
của Fukuzawa Yukichi ở Tokyo nên hai cụ rất hiểu tác dụng của giáo dục quốc dân
đối với việc thực hiện “quốc phú binh cường” (nước giàu, quân mạnh) ở nước Nhật.
Vì thế các cụ đã gợi ý nhóm sĩ phu nói trên lập ra ĐKNT.
Theo tài liệu do ĐKNT biên soạn thì đây là trường học đầu
tiên được lập ở Việt Nam: “Nước Nhật Bản chỉ có 43 huyện mà có đến 26.824 trường
tiểu học. Nước ta hơn 30 tỉnh, hơn 500 huyện mà chưa nghe ai nói tới mở trường.
Than ôi! Chẳng phải là đáng giận lắm sao?”[1] Thực ra nước ta ngày ấy tuy chưa
có trường học theo nghĩa có trường sở, có bộ máy tổ chức quản lý và giảng dạy,
đào tạo học sinh theo một chương trình nhất định, nhưng cũng có không ít cơ sở
giảng dạy văn hóa Nho giáo như các lớp học tại gia của thầy đồ. Cơ sở lớn nhất
là Quốc tử Giám Văn Miếu, được gọi là “trường đại học đầu tiên”. Nhưng mọi hoạt
động giáo dục thời xưa chỉ nhằm đào tạo người làm quan, như đạo Khổng dạy: Học
nhi ưu tắc sĩ (Học giỏi thì ắt làm quan). Về sau, từ cuối thế kỷ XIX, Thống sứ
Trung Bắc lưỡng kỳ Paul Bert (nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục Pháp) bắt đầu mở một
số trường tiểu học Pháp-Việt nhằm đào tạo người làm việc cho thực dân Pháp.
Nhưng một trường học kiểu ĐKNT thì đúng là nước ta chưa từng có (kể cả hiện
nay)!
ĐKNT khai giảng tháng 3/1907 tại Hà Nội, hai tháng trước khi
có giấy phép của chính quyền cai trị. Trường không thu học phí, các tài liệu giảng
dạy và tuyên truyền đều phát không cho học viên, hơn nữa còn phát hành trên cả
nước. Ai muốn học đều được nhận, bất kể già trẻ gái trai, kể cả nhà Nho muốn học
tiếng Pháp. Kinh phí hoạt động dựa vào sự đóng góp tùy tâm của dân; giáo viên
thời gian đầu không lĩnh lương. Bộ máy nhà trường gồm 4 ban: Giáo dục (mở lớp
và giảng dạy), Tu thư (soạn tài liệu giảng dạy và tuyên truyền), Cổ động (tuyên
truyền), Tài chính (lo kinh phí). Trường dạy các môn: Quốc ngữ, chữ Hán (chỉ để
đọc tân thư), tiếng Pháp, các thường thức về xã hội, lịch sử, địa dư, chính trị,
kinh tế, quyền công dân. Nhà trường có một cơ quan ngôn luận riêng là tờ Đại Việt
Tân báo; một thư viện nhiều sách báo với thủ tục cho mượn là chỉ cần đọc xong
thì trả lại; một hòm thư trưng cầu ý kiến nhân dân đóng góp xây dựng trường… Với
hình thức tổ chức như vậy, ĐKNT đúng là một trường học tiên tiến chưa từng có
trong lịch sử nước ta, Trung Quốc thời ấy cũng chưa có.
ĐKNT đặc biệt chú trọng việc biên soạn tài liệu giảng dạy,
tuyên truyền. Các lớp bậc cao dùng ngay tân thư Nhật Bản và Trung Quốc (chủ yếu
do TQ dịch từ sách Nhật) để giảng dạy, vì học viên đã biết chữ Hán nên có thể
trực tiếp đọc sách. Các lớp dưới dùng sách quốc ngữ hoặc chữ Hán do trường biên
soạn. Văn thơ của các chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền…cũng
được dùng để giảng dạy. Nội dung các tài liệu nói trên đều nhằm nâng cao lòng
yêu nước, đả phá nền cựu học khoa hoạn phong kiến cùng lối sống cũ, đề xướng
tân học cùng lối sống mới, học văn minh phương Tây, học chữ Quốc ngữ và khoa học
kỹ thuật, chấn hưng kinh tế …
Hội quán ĐKNT (mới đầu ở nhà số 4 phố Hàng Đào) treo một bản
đồ tổ quốc cỡ lớn chưa từng thấy nhằm khích lệ lòng yêu nước một cách trực
quan, cảm tính. Đồng bào rủ nhau đến xem rất đông, ai cũng xúc động vì hầu như
đây là lần đầu tiên họ được biết hình dạng tổ quốc mình trên trái đất. Một số
tài liệu nhà trường phát không cho học viên có nội dung vạch tội ác của thực
dân Pháp, kêu gọi đồng bào đứng lên cứu nước. Như “Hải ngoại Huyết thư” của
Phan Bội Châu được Lê Đại dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt, chuyển thành thể thơ
song thất lục bát có vần điệu rất hay, dễ nhớ dễ truyền khẩu, hầu như cả nước
ai cũng thuộc lòng. Những câu như
Đội trời đạp đất ở
đời
Sinh ra Nam quốc
là người trượng phu
Ai cũng bụng phục
thù báo quốc
Thấy giống người
nước khác ai ưa?
Cớ sao ngày tháng
lần lừa
Rụt rè như thế, đợi
chờ ngóng trông?
và
Lẽ vinh, sỉ, có
hai đường ấy
Anh em ta đã nghĩ
cho chưa?
Gió tanh xông mũi
khó ưa
Gươm sao cắp nách
mà ngơ cho đành
Hòn máu uất chất
quanh đầy ruột
Anh em ơi, xin tuốt
gươm ra!…
Cờ độc lập xa
trông phấp phới
Kéo nhau ra đòi lại
nước nhà![2]
sao mà kích động lòng người, như tiếng trống trận thúc dục họ
đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm, giải phóng tổ quốc!
Với nội dung hoạt động như vậy, ĐKNT lập tức được nhân dân
ta vốn giàu lòng yêu nước và hiếu học hăng hái hưởng ứng, ủng hộ. Số học viên từ
khoảng dăm chục lúc đầu sau vài tháng lên tới mấy nghìn, và tiếp tục tăng dần.
Nhiều nhà trí thức Nho học và Tây học tự nguyện tham gia giảng dạy, như hai nhà
Tây học nổi tiếng nhất hồi ấy là Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Duy Tốn giúp dạy tiếng
Pháp. Cụ Phan Châu Trinh từ Quảng Nam ra Hà Nội diễn thuyết tuyên truyền cho
ĐKNT. Đồng bào các giới nô nức góp tiền của cho trường, có lúc nhiều tới mức
thu không xuể. Nhân sĩ khắp ba kỳ kéo nhau đến xem trường, ai nấy đều hồ hởi
hoan nghênh, ủng hộ. Thời gian đầu bọn Pháp cũng không ngăn cấm mà còn phỉnh phờ.
Phong trào lan ra nhanh chóng. Sĩ phu ở một số tỉnh tự động lập phân hiệu của
ĐKNT. Bà con ta truyền nhau mấy câu thơ:
Trường Nghĩa thục
đứng đầu dạy dỗ
Khắp ba mươi sáu
phố Hà thành
Gái trai nô nức học
hành
Giáo sư tám lớp, học
sinh non ngàn.
và
Buổi diễn thuyết
người đông như hội
Kỳ bình văn khách
tới như mưa.
Trong hoàn cảnh hồi ấy, khi tất cả các cuộc nổi dậy chống
Pháp đều bị kẻ địch dìm trong biển máu, lối thoát cho công cuộc giải phóng dân
tộc ta rõ ràng chưa thể là khởi nghĩa vũ trang, mà là chuẩn bị lực lượng quần
chúng: trau dồi cho đông đảo đồng bào lòng yêu nước và các kiến thức cần thiết
nhất để đổi mới xã hội về mọi mặt kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật, làm
cho dân giàu nước mạnh. ĐKNT chọn giáo dục quốc dân làm biện pháp chuẩn bị lực
lượng cách mạng là sự lựa chọn sáng suốt hồi ấy. Gây dựng được phong trào đông
đảo quần chúng hăng hái học tập như thế thật là việc chưa từng có trong lịch sử
nước ta.
ĐKNT trước hết tập trung vào chủ đề giáo dục. Nền giáo dục
nước ta xưa nay rập khuôn TQ “đặt đạo đức lên đầu, xem trí năng là thứ yếu, cho
nên không nói tới giáo dục quốc dân … Chỉ những ai có chí làm công khanh, đại
phu mới đi học, chớ không phải là giáo dục quốc dân nhằm phổ biến rộng rãi
trong dân chúng, mà là định phân trên dưới, giữ gìn lễ phép. Đường lối giáo dục
quốc dân không phải như thế, mà là làm rõ cái lý tương quan giữa nước với dân,
sao cho họ biết vị trí của họ trong xã hội, chức phận ra sao, và làm thế nào để
gây ý thức ái quốc ái quần, bồi dưỡng tài năng tự trị, tự lập… Một nước không
có giáo dục quốc dân thì trăm họ u mê, không biết quốc gia, chính trị là
gì.”[3] ĐKNT kêu gọi:
Liệu mà sớm bảo
nhau đi
Giàu thì giúp của,
nghèo thì gắng công
Khăng khăng ghi lấy
một lòng
Sang Âu, sang Mỹ học
tòng nghề hay
Bao nhiêu nghề
khéo nước ngoài
Học sao cho được
hơn người mới nghe
Bấy giờ rồi liệu
trở về
Mở trường trong nước lấy nghề dạy nhau.[4]
Nghĩa là ĐKNT muốn làm cuộc cách mạng về đối tượng, mục đích
và phương thức giáo dục: từ chỗ chỉ giáo dục một số ít người chuyển sang giáo dục
số đông dân chúng; từ chỗ chỉ đào tạo người làm quan chuyển sang đào tạo người
làm công dân, từ giáo dục tự nguyện sang giáo dục bắt buộc; từ chỉ học trong nước
sang đi học nước ngoài. Nền giáo dục cũ đều dùng chữ Hán, một thứ chữ rất khó học,
chỉ một số cực ít người muốn làm quan và có điều kiện mới chịu học. Kiến thức họ
được học toàn là các kinh điển Nho giáo, văn chương cổ lỗ có từ hàng nghìn năm
trước, xa rời thực tế xã hội, không ích gì cho phát triển kinh tế, chính trị,
KHKT, nâng cao đời sống của dân. Hậu quả là các nhà Nho vô dụng lại làm quan
cai trị dân. Chính vì thế mà dân ngu nước yếu, không chống nổi ngoại xâm. Đã vậy
giới hủ nho lại mù quáng tôn vinh văn minh Nho giáo cổ hủ, tự cao tự đại, khinh
thường mọi thứ của người Tây, như văn minh phương Tây, chữ Quốc ngữ (do các
giáo sĩ người Âu làm ra), KHKT và văn minh vật chất. Các yếu nhân ĐKNT tuy vốn
là nhà Nho song do tiếp thu được tư tưởng duy tân từ Nhật và TQ nên họ thấy rõ
muốn dân giàu nước mạnh thì trước hết phải nâng cao dân trí, tức tiến hành giáo
dục quốc dân nhằm thực thi “Khai dân trí” – nội dung đầu tiên trong phương châm
cách mạng Việt Nam thời ấy “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” do Phan
Châu Trinh nêu ra.
Muốn mở dân trí, phải kiên quyết đả phá nạn hủ nho. “Cáo hủ
lậu văn” của ĐKNT viết: “Ôi! các bố, có óc thông minh, ở làng cao sang, đọc sách
hiền triết, làm mẫu da vàng! Đương lúc này nghe thấy mới lạ, cuộc đời mở mang,
sao không ra tay cứu vớt người chìm đắm, đánh thức kẻ mơ màng! Tại hại thay hủ
thư! Đục nát bét các bố! Đau đớn thay hủ nho! Làm các bố lầm lỡ!”
Muốn phổ cập giáo dục thì phải dùng chữ Quốc ngữ. “Văn minh
Tân học sách” – cuốn sách có tính cương lĩnh của ĐKNT viết: “Người trong nước
đi học nên lấy chữ Quốc ngữ làm phương tiện đầu tiên để trong một thời gian vài
tháng, đàn bà trẻ con đều biết chữ và có thể dùng … Đó thực là bước đầu tiên để
mở mang trí khôn vậy.” Đúng là nhờ biết chữ Quốc ngữ mà tư duy, trí tuệ của người
Việt được giải phóng, mở mang, tiến những bước nhảy vọt hơn hẳn mấy nghìn năm
trước. Không có chữ Quốc ngữ thì các tư tưởng tiên tiến của ĐKNT sao có thể đến
được quần chúng nhân dân. Mười năm sau (1917), học giả Phạm Quỳnh đưa ra nhận định:
chữ Quốc ngữ là công cụ giải phóng trí tuệ người Việt.
Làm cho dân ta chấp nhận một loại chữ viết mới thay cho chữ
Hán quen dùng hàng nghìn năm là một cuộc cách mạng lớn về văn hóa giáo dục. Hầu
hết người trí thức ở ta ngày ấy chỉ biết chữ Hán, thứ chữ viết bằng bút lông có
vẻ cao sang. Giới hủ Nho tẩy chay và chê bai chữ Quốc ngữ viết bằng ngòi bút sắt
là thứ chữ “mọi rợ”, “ngoằn ngoèo như con giun”. Sử gia Chương Thâu đánh giá: với
việc thực hiện dạy chữ Quốc ngữ, ĐKNT đã tiến xa hơn các nhà duy tân TQ chỉ hô
hào bỏ khoa cử và lối văn tám vế (bát cổ) nhưng vẫn giữ cổ văn, cho tới năm
1917 mới đề nghị dùng bạch thoại.
ĐKNT đề xướng học không vì bằng cấp, “chỉ cốt học để làm người
dân, chứ không học lối từ chương khoa xử, là cái di độc ngày xưa còn lại, lúc bấy
giờ chúng tôi ghét lắm.” (lời giám học Nguyễn Quyền). Sử gia Chương Thâu nhận
xét: Lần đầu tiên trong lịch sử, ĐKNT đã thành công tách rời thi cử ra khỏi
giáo dục. ĐKNT hô hào: “Thiếu niên chúng ta phải ra sức học cái hữu dụng, chớ để
cái học khoa cử phá hỏng chí hưởng của mình.” Nếu cứ học theo lối cũ “thì nước
ta sẽ không đời nào hưng thịnh được.”[5]
ĐKNT dạy cho dân biết các kiến thức hiện đại, tiên tiến về
chính trị, kinh tế, xã hội mà người Việt Nam chưa từng nghe nói. Chỉ cần điểm
qua tên một ít bài trong số 79 bài trong sách “Quốc dân độc bản” (Sách dùng để
quốc dân đọc) là đủ thấy điều đó: – Quan
hệ giữa nước với dân; – Nỗi bi thảm của quốc gia không được độc lập; – Lòng yêu
nước; – Độc lập; – Cạnh tranh; – Chính thể; – Bàn về cái hại của khoa cử; – Thuế
khóa; – Pháp luật; – Nước ta nên chấn hưng thực nghiệp; – Máy móc; – Ích lợi của
đại công nghiệp; – Tiền công; – Tư bản; – Nhà đại tư bản cũng có ích cho người
nghèo; – Thương mại; – Tiền tệ; – Trái phiếu, hối phiếu; – Séc; – Công ty; các
bài viết về nước Nhật (chính thể, giáo dục…).
Sách “Luân lý giáo khoa” có các chương nói về nghĩa vụ của
quốc dân với tổ quốc, gia đình, bản thân, xã hội, với nhân loại. Từ “quốc dân” ở
đây chính là từ “công dân” ta dùng bây giờ, là người dân có các quyền lợi và
nghĩa vụ nhất định đối với quốc gia của mình, khác với “thần dân” là người dân
chịu sự cai trị của triều đình phong kiến, phải tuyệt đối phục tùng chính quyền,
không có quyền lợi gì hết (trong chữ Hán “thần” nghĩa là nô lệ).
Khác hẳn nền cựu học chỉ dạy học sinh thuộc lòng thứ văn
chương cao sang khó hiểu viết từ mấy nghìn năm trước, các tài liệu giảng dạy của
ĐKNT thường viết dưới dạng thơ ca dễ hiểu dễ học dễ nhớ. Sách “Quốc văn tập đọc”
có 19 bài ca như: khuyên học chữ Quốc ngữ, khuyên yêu nước, khuyên họp đàn, mẹ
khuyên con, răn người uống rượu, răn người đánh bạc…“Bài ca khuyên người đi tu”
viết:
Phen này cắt tóc
đi tu
Tụng kinh Độc lập,
ở chùa Duy tân
Đêm ngày khấn vái
chuyên cần
Cầu cho ích quốc lợi
dân mới là…
“Bài vợ khuyên chồng” viết:
Anh làm sao cho
ích nước lợi nhà
Mọi nghề tân học ắt
là phải thông
Anh làm sao cho nổi
tiếng Lạc Hồng
Có khôn mới đứng
được trong cõi đời.
Điểm qua vài nét kể trên, có thể thấy ĐKNT đã thực sự làm một
cuộc cách mạng giáo dục đầu tiên, với quy mô lớn và tính chất tiên tiến chưa từng
thấy trong lịch sử nước ta. Xét tổng thể, ĐKNT không chỉ là một trường học mà
thực chất là cả một phong trào cách mạng yêu nước nhằm mục đích giải phóng xã hội
và dân tộc khỏi ách phong kiến thực dân.
Thực dân Pháp đã thấy ngay các hoạt động của ĐKNT đe dọa lật
đổ ách thống trị của chúng. Vì thế ĐKNT chỉ hoạt động được 9 tháng đã bị chính
quyền Pháp ra lệnh đóng cửa và tàn bạo đàn áp. Chúng bắt giam nhiều yếu nhân
ĐKNT, kết án họ từ 5 năm tù đến chung thân, tử hình và đày ra Côn Đảo nhằm cách
ly với đồng bào. Các tài liệu của ĐKNT đều bị tiêu hủy, ai tàng trữ sẽ bị tù;
vì thế cho nên hiện còn rất ít tài liệu để tham khảo. Tuy vậy, ảnh hưởng của
ĐKNT vẫn tiếp tục lan ra khắp nơi, khêu gợi lòng yêu nước trong toàn dân, chuẩn
bị lực lượng cho các phong trào đấu tranh chống Pháp về sau.
Cao trào yêu nước ĐKNT chứng tỏ Việt Nam là nước châu Á đầu
tiên đi theo con đường Duy tân của Nhật, tiếp thu văn minh phương Tây, dùng biện
pháp giáo dục quốc dân để nâng cao dân trí, cải cách xã hội, tiến tới thực hiện
dân giàu nước mạnh. Cuộc cách mạng giáo dục do ĐKNT tiến hành đã viết nên một
trang sáng ngời trong lịch sử giáo dục nước ta.
Phong trào yêu nước ĐKNT vẻ vang như thế lẽ ra phải được tôn
vinh, ca ngợi xứng tầm để có thể làm dân tộc này kiêu hãnh ngẩng cao đầu, nhưng
không rõ vì sao lâu nay dường như đang bị dư luận chính thống ở ta quên lãng dần.
Đây thật là điều vô cùng đáng tiếc. Mong sao các thế hệ sau sẽ sửa được sai lầm
này!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét