Có khoảng từ 500 đến 1.000
xác tàu nằm quanh quần đảo Magdalen Islands, Quebec, với vô số sinh mạng
kém may mắn, nơi người ta dễ đến nhưng mịt mù ngày về.
Peter Alexander Tager đi lậu vé trên chiếc tàu Good Intent, một tàu chở gỗ của Liverpool đi từ Quebec về Anh. Nhà Brophys giong buồm một chiếc tàu chạy trốn nạn đói của người Ireland, con tàu có tên Miracle, chở theo hàng trăm di dân đi tìm cuộc sống mới đầy hi vọng ở Canada. Robert Best trên đường quay lại Quần đảo Channel trên chiếc tàu Perry, một con tàu chở đầy cá tuyết muối từ cảng Gaspé.
Peter Alexander Tager đi lậu vé trên chiếc tàu Good Intent, một tàu chở gỗ của Liverpool đi từ Quebec về Anh. Nhà Brophys giong buồm một chiếc tàu chạy trốn nạn đói của người Ireland, con tàu có tên Miracle, chở theo hàng trăm di dân đi tìm cuộc sống mới đầy hi vọng ở Canada. Robert Best trên đường quay lại Quần đảo Channel trên chiếc tàu Perry, một con tàu chở đầy cá tuyết muối từ cảng Gaspé.
Doi đất nguy hiểm khó lường
Bản quyền hình ảnh Uladzimir Taukachou
Họ
giong buồm ra khơi vì những lý do khác nhau, nhưng tất cả đều cùng gục
ngã trước một định mệnh tương tự: tàu của họ chệch hướng khỏi hải trình
và cuối cùng bị nuốt chửng bởi những bãi cát và vùng nước nông ở Quần
đảo Magdalen (còn gọi là Les Îles de la Madeleine trong tiếng Pháp) ở
vùng Quebec chủ yếu nói tiếng Pháp của Canada.
Bị
cô lập giữa Vịnh St. Lawrence, quần đảo có dạng hình lưỡi câu này là
một dải đất liền khó ngờ và nguy hiểm khôn lường với những con tàu đi từ
Châu Âu đến Quebec. Ước tính có khoảng từ 500 đến 1.000 con tàu đã trở
thành nạn nhân vì sự bất thường của quần đảo này, hầu hết trong thế kỷ
18 và 19.
"Rất nhiều người thậm chí không biết có một hòn đảo ở
đó," người bảo vệ bờ biển Charles Cormier cho biết. "Một lần, 48 con tàu
bị chìm chỉ trong một cơn bão."
Tổ tiên chung của dân đảo
Vào
thời đó, chỉ có vài ngọn hải đăng hoặc biểu đồ chính xác. Gió mạnh,
sương mù, cùng với vùng nước đầy đá đã khiến việc định hướng trở thành
một trò chơi đoán mò và đòi hỏi sự khéo léo. Kết quả là rất nhiều hành
khách đã chết và được chôn cất giữa những đồi cát. Chỉ có những người
lanh lẹ nhất mới sống sót được, phải từ bỏ chuyến đi ban đầu và xây dựng
cuộc sống mới dọc theo những bờ biển đầy bão tố ở quần đảo này.
Ngày
nay, rất nhiều hậu duệ của những người sống sót, như cô Nancy Clark, 32
tuổi, hiện vẫn sống trên đảo và cảm thấy khó có thể dứt áo ra đi dẫu có
rất nhiều thách thức phải đối mặt. Họ đã bắt rễ ở đây từ lâu và trở
thành một cộng đồng nói tiếng Anh rất nhỏ trong thế giới toàn những
người nói tiếng Pháp. Họ sống để kể lại câu chuyện cho thế hệ sau về
những người dân đảo đã đến nơi này sinh sống trước họ.
"Chúng tôi là một cộng đồng nhỏ đến mức có lẽ tất cả
mọi người đều có thể tự truy nguyên nguồn gốc đến ít nhất một người đã
đến đây vì bị đắm tàu," Clark nói.
Hai cộng đồng - hai ngôn ngữ
Trên
quần đảo đa phần mọi người đều nói tiếng Pháp này, chỉ có khoảng 550 cư
dân nói tiếng Anh, là con cháu của những người đến từ Anh, Scotland và
Ireland. Nhiều người trong số họ là dân nhập cư, và có một số là hành
khách trên những chuyến tàu chở hàng quyết định ở lại sau khi tàu bị
đắm. Hầu hết mọi người sống trong ba cộng đồng: Grosse-Île và Old Harry ở
phía bắc quần đảo, và Entry Island (Île-d'Entrée trong tiếng Pháp), là
một đảo nhỏ ở phía nam chỉ có thể đến bằng phà. Với những cư dân này, tổ
tiên của họ gắn liền với hòn đảo, giúp cho họ duy trì một bản sắc văn
hóa mạnh mẽ.
Rất nhiều cư dân ở đây có cùng họ. Ở cộng đồng Old
Harry, hầu hết mọi người có họ Clark hoặc Dunn. Ở cộng đồng Grosse-Île,
một trong những họ phổ biến nhất là họ Clarke thay vì họ Clark, gây ra
nhiều tranh cãi về chính tả. Người dân ở Old Harry nói người ở
Grosse-Île đã thêm vào chữ "e", trong khi người ở Grosse-Île tin rằng
người sống ở cộng đồng Old Harry đã bỏ đi nguyên âm cuối.
Cộng đồng nói tiếng Anh và tiếng Pháp bảo tồn bản
sắc đặc trưng của họ qua nhiều năm. Đến thập niên 1970, có rất ít những
cuộc hôn nhân giữa hai nhóm cộng đồng, và mỗi cộng đồng có nhà thờ
riêng, theo Công Giáo hay Tin Lành, và họ cũng có trường học riêng.
"Người
Anh sẽ ở trong cộng đồng của người Anh, còn người Pháp ở trong cộng
đồng của người Pháp," Winston Clarke, một cư dân ở Grosse-Île cho biết.
"Tôi không nói là có bất cứ gì thù địch cả. Thời đó rất khó khăn để đi
lại giữa các cộng đồng, không có đường sá gì trong hồi đầu thập niên
1900."
Những khác biệt tế nhị
Có
một số yếu tố đơn giản cho thấy sự khác biệt của các cộng đồng. Ví dụ,
trong cộng đồng người Anh, nhà cửa được sơn với màu trắng và xám mờ
nhạt, trong khi người Pháp sử dụng màu vàng tươi, xanh lá cây, xanh da
trời và thậm chí cả màu cam. Clark cũng cho biết những khác biệt tế nhị
trong giao tiếp, ví dụ như cách người Pháp Francophones thường hôn và
chạm vào nhau, trong khi người Anh Anglophones còn một chút bảo thủ.
"Chúng tôi thiên về kiểu "gật đầu" chào hơn," Clark nói.
Mặc
dù quần đảo Magdalen có nhiều bản sắc đặc thù, Clark nhận thấy những
điểm mạnh trong sự chung nhất mà họ có đến ngày nay. Cô làm việc tại
trường học địa phương và phát triển nhiều dự án để giữ chân những người
Anh trẻ để họ không rời nơi đây mà tìm đến những thành phố lớn ở Canada.
"Tôi không nghĩ có sự khác biệt gì lớn - chúng tôi
để ý đến sự khác biệt, nhưng tôi không rõ liệu có ai khác để ý không vì
tất cả chúng tôi đều là cư dân trên đảo và chúng tôi chia sẻ với nhau
rất nhiều điểm chung," Clark nói.
Nhà dựng từ xác tàu
Ngoài những ngôi nhà, màu sắc và truyền thống, nơi
đây còn có nhiều thứ khác. Một số ngôi nhà được xây từ vật liệu lấy từ
xác tàu đắm, giống như ngôi nhà của Rhoda Clark ở cộng đồng Old Harrry,
trước là nhà của bà dì Nancy Clark, người có cụ tổ đã cứu những nạn nhân
sống sót từ tàu Miracle bị đắm vào tháng 5/1847. Rhoda giải thích rằng
ngôi nhà của bà là một phần của lịch sử hòn đảo, và nó đã được truyền
lại qua nhiều thế hệ trong gia đình bà ra sao.
"Ông cố của tôi
Henry Sr.Clark đã xây dựng ngôi nhà cũ tại đây từ một số xác tàu, ông
lắp ghép chúng với một số chốt bằng gỗ trên gác mái. Vào năm 1861, ông
đã xây ngôi nhà... ông đi bộ ra bãi biển và đó là cách ông xây nhà, từng
mảnh từng mảnh."
Cũng
trong cộng đồng Old Harry, Nhà thờ St-Peters-by-the-Sea (Thánh Peter
bên bờ biển) đã 100 năm tuổi và cũng được dựng từ gỗ lấy từ xác tàu đắm.
"Chúng tôi muốn đảm bảo chúng tôi giữ được ngôi nhà và giữ nó cho cộng
đồng và chắc chắn nó không bị bán đi," Clark nói. "Vì thế chúng tôi phát
triển một dự án rất có ý nghĩa với cộng đồng."
Nhà thờ sẽ tổ
chức một cuộc triển lãm chân dung những cư dân trên đảo đã qua đời liên
quan đến biển trong suốt thế kỷ 20. Clark bắt đầu thu thập hình ảnh các
nạn nhân vì cô nhận ra những cái chết bên bờ biển ảnh hưởng đến hầu hết
các gia đình ở đây theo cách này hoặc cách khác. Cô đã thu thập được 135
bức chân dung, hầu hết trong số chúng đã được chụp sau thập niên 1950.
"Sự say mê của tôi với những xác tàu đắm đã bắt đầu
từ rất lâu. Tôi lặn biển đã 35 năm. Chẳng cần ai phải giúp cả, tôi làm
việc này vì đam mê. Bởi vì tôi yêu nó," nhân viên bảo vệ bờ biển Charles
Cormier nói. Ông là người không có mối dây phả hệ nào với những nạn
nhân sống sót nhưng ông suốt đời luôn bị cuốn hút bởi sứ mệnh tìm kiếm
những con tàu.
Xác tàu Hi Lạp
Rất nhiều xác tàu đắm ở Quần đảo Magdalen ẩn mình
dưới đáy biển sâu đang ở tình trạng bị hủy hoại ở nhiều mức độ khác
nhau, mà thường những gì còn sót lại chỉ là những mảnh ván gỗ. Nhưng
đứng từ bờ biển người ta vẫn nhìn được một số xác tàu, chẳng hạn như tàu
Corfu Island từng thuộc sở hữu của đại gia người Hy Lạp, Aristotle
Onassis, bị chìm ngoài khơi đảo Magdalen vào năm 1963 và sau đó nằm mắc
cạn trên bãi biển, thân tàu kẹt trong cát.
"Mọi người đều được
cứu sống," Cormier nói. "Còn tàu khi đó có chở theo rất nhiều sơn màu
xanh. Dân đảo lấy sơn và sau đó họ sơn nhiều ngôi nhà trên đảo, đó là lý
do tại sao có rất nhiều nhà màu xanh lá cây."
Sự tương phản đậm nét
Quần đảo Magdalen là nơi có nhiều nét tương phản rõ
nét: một ngày nắng có thể nhanh chóng chuyển thành bão tố, và vẻ đẹp của
biển khơi có thể nhanh chóng chuyển mình thành sự hiểm nguy - đặc biệt
trong mùa đánh cá, khi ngư dân dầm mình trong nước đến 12 giờ mỗi ngày.
"Đôi
khi vào mùa đông khi trời rất gió và rất ảm đạm, mọi thứ có thể khắc
nghiệt một chút. Nhưng mùa hè sẽ bù đắp cho tất cả, khi chúng tôi có
thời tiết tuyệt đẹp và đây là nơi an bình và em đềm nhất mà bạn từng
gặp," Clark nói.
Tia hi vọng cho quần đảo
Quần
đảo Magdalen có thể mãi mãi bị ngấp nghé đe dọa trên biển. Theo Đại học
Québec ở Rimouski, 70% phần bờ biển phía ngoài đang có nguy cơ bị nhấm
chìm, khiến 0,75m bờ biển mất đi mỗi năm. Một số cư dân đã chuyển nhà xa
khỏi rìa các rặng đá trong vài năm qua.
Tuy nhiên, có nhiều điều
đã thay đổi vĩnh viễn, đặc biệt từ thế kỷ 18-19, khi không có đủ các
ngọn hải đăng để dẫn đường cho tàu bè được an toàn, như Thuyền trưởng
Edward Boxer (và cũng là một nạn nhân thoát khỏi vụ đắm tàu) viết vào
năm 1828:
"Trên vùng biển này, công tác hoa tiêu là rất nguy hiểm
vì dòng chảy thất thường và rất mạnh, và không có đến một ngọn hải đăng
trên toàn bộ vùng Vịnh. Thực sự đáng tiếc khi có rất nhiều xác tàu ở
rất nhiều nơi trên bờ biển... số lượng sinh mạng đã chết rất lớn và
không đếm xuể..."
Lời phàn nàn của ông và những thuyền trưởng
khác cuối cùng cũng được lắng nghe. Ngọn hải đăng đầu tiên trên Quần đảo
Magdalen được xây dựng năm 1870 ở Bird Rock (Đá Chim), cách cộng đồng
Grosse-Île 32 km về phía đông bắc. Ngày nay, sáu ngọn hải đăng cùng nhau
vận hành với biểu đồ chi tiết, định vị GPS và các phương pháp định
hướng hiện đại khác để khiến những hòn đảo xinh đẹp và mong manh này trở
thành một chốn phiêu lưu an toàn và dễ dàng hơn cho những người giong
buồm lại gần đảo - và an toàn cho cả những người chọn đến sinh sống ở
nơi này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét