Khi đảng Cộng sản viết lại lịch sử
Cuộc “cách mạng thường trực” của lãnh tụ đảng Cộng sản Trung
Quốc Mao Trạch Đông đã hủy diệt hàng chục triệu sinh mạng. Từ thắng lợi của phe
cộng sản trong cuộc nội chiến Trung Hoa năm 1949, xuyên qua những biến động, nạn
đói và những biến cố đổ máu trong các thời kỳ Đại Nhảy vọt và Cách mạng Văn hóa
cho đến khi Mao chết năm 1976, đảng Cộng sản Trung Quốc đã xúi các bộ phận của
xã hội đánh nhau với các bộ phận khác trong nhiều đợt bùng nổ cuộc đấu tranh
giai cấp tàn bạo. Khi làn sóng man rợ này tiếp làn sóng man rợ khác quét qua đất
nước Trung Hoa, hàng triệu người đã bị giết chết, hàng triệu người khác bị đưa
vào các trại “cải tạo qua lao động” và bị tiêu diệt.
Mao đã hình dung trước mức độ tàn bạo đó. Có lần ông ta
tuyên bố: “Một cuộc cách mạng không phải là bữa dạ hội, không phải là viết một
bài văn, vẽ một bức tranh, hoặc thêu một tấm áo. Cách mạng không thể tinh tế
như thế, nhàn nhã như thế, lịch thiệp, ôn hòa, tử tế, nhẫn nhục và cao thượng
như thế. Một cuộc cách mạng là một cuộc nổi dậy, một hành vi bạo lực mà một
giai cấp tiến hành để lật đổ một giai cấp khác”.
Ngày nay, ngay những chuyên gia về lịch sử Trung Quốc cũng
khó mà dõi theo tất cả những “phong trào quần chúng” đẫm máu đã định hình cuộc
cách mạng của Mao – những sự kiện mà đảng [Cộng sản Trung Quốc] thường xuyên
tán tụng bằng nhiều khẩu hiệu khác nhau: sau khi những người Cộng sản giành được
quyền lực năm 1949 Mao tiến hành hàng loạt chiến dịch để “xóa bỏ địa chủ”; để
“trấn áp bọn phản cách mạng” vào đầu thập niên 1950; tiêu diệt bọn “hữu khuynh”
cuối thập niên 1950; lật đổ bọn “tàn dư của chủ nghĩa tư bản” trong cuộc Cách mạng
Văn hóa cuối thập niên 1960; và để “chỉnh huấn” tư tưởng của thế hệ trẻ qua việc
gửi thanh niên xuống các vùng nông thôn nghèo khó nhất trong Phong trào đi về
nông thôn cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970. Những lời lẽ hoa mỹ về ý thức
hệ đã che lấp sự cực đoan tàn bạo của những hành động chính thức mà qua đó đảng
cho phép hành hạ, thậm chí thủ tiêu vô số “các phần tử phản cách mạng” đủ loại.
Một trong những tuyên bố đáng chú ý nhất của Mao là “đảng chỉ huy súng, súng
không bao giờ được phép chỉ huy đảng”. Rất lâu sau khi Mao qua đời, những người
kế vị ông vẫn thực thi truyền thống đó, rõ nhất là trong vụ thảm sát ở quảng
trường Thiên An Môn và cuộc đàn áp tiếp sau đó mà đảng Cộng sản Trung Quốc tiến
hành để đối phó với những cuộc phản đối hòa bình năm 1989, dẫn tới không biết
bao nhiêu người chết và bị thương.
Ngày nay, Trung Quốc có một giai đoạn tương đối ổn định. Đảng
Cộng sản Trung Quốc đang đề cao một tầm nhìn về “xã hội hài hòa” thay thế cho đấu
tranh giai cấp, tán dương sự giàu có tiện nghi thay cho bạo lực thanh tẩy. Những
người không quen thuộc với đất nước này có thể được thông cảm khi họ phỏng đoán
rằng nó đã hòa giải với quá khứ gần đây và đã tìm được phương thuốc chữa lành vết
thương để tiếp tục đi tới.
Hoàn toàn không phải như vậy. Trong thực tế, một du khách
lang thang trên các đường phố của bất kỳ thành phố Trung Quốc nào hôm nay đều
không tìm ra được một tấm biển ghi dấu địa điểm từng diễn ra những cuộc bố ráp
và bắt bớ đám đông, không một bức tượng nào ghi nhớ những nạn nhân bị hành hạ,
không đài tưởng niệm nào được dựng lên để tôn vinh những người đã bị tiêu diệt
sau khi bị xếp loại là “kẻ thù giai cấp”. Mặc cho tất cả những cái chết, những
nỗi thống khổ về tinh thần và thể xác mà đảng Cộng sản Trung Quốc đã gây ra, đảng
không bao giờ công bố một lời thừa nhận chính thức về các tội lỗi đó, nói gì tới
việc cho phép nhân dân ghi nhớ hoặc tưởng niệm các nạn nhân của đảng. Và bởi vì
mọi sự hối hận và xin lỗi đều có nguy cơ xói mòn tính chính danh của đảng, hủy
hoại độc quyền cai trị của đảng, nên không có một hành vi tưởng nhớ hay xin lỗi
nào có thể diễn ra chừng nào đảng Cộng sản Trung Quốc còn nắm giữ quyền lực.
Được viết (lại) bởi người chiến thắng
Mặc dù đảng [Cộng sản Trung Quốc] đã có những thành công thật
sự ấn tượng trong công cuộc lèo lái sự phát triển kinh tế Trung Quốc, đưa đất
nước này lên vị trí cường quốc toàn cầu, đảng vẫn hết sức bất an và dễ bị tổn
thương, có lẽ bởi vì các lãnh tụ đảng vẫn ý thức một cách đau đớn về những món
nợ lịch sử của đảng. Ban Tuyên giáo trung ương đảng – cùng với vô số cơ quan
nhà nước khác có nhiệm vụ kiểm duyệt báo chí truyền thông và bảo đảm tất cả các
tài liệu giáo dục đều theo đúng đường lối của đảng – đã phong tỏa nhiều khu vực
rộng lớn của quá khứ Trung Quốc. Nhiều hậu quả nghiêm trọng đã sinh ra từ cuộc
thao túng những gì được coi là nền tảng của bản sắc dân tộc, những DNA của lịch
sử.
Duy trì một phiên bản lịch sử “đúng đắn” không chỉ đòi hỏi
phải có sự kiểm soát toàn trị chủ nghĩa mà còn triệt tiêu khả năng của người
dân Trung Quốc trong việc khám phá, tranh luận, nhận thức và hòa giải với ý
nghĩa đạo đức của những gì đã gây ra cho họ và những gì họ bị buộc phải làm cho
chính họ và cho người khác.
Nhiệm vụ “chỉnh sửa” hoặc bôi xóa hoàn toàn nhiều mảng quá
khứ của đất nước là hết sức tốn kém và mệt mỏi. Giáo sư Glenn Tiffert, một học
giả về Trung Quốc tại Đại học Michigan gần đây đã làm rõ một trường hợp cho thấy
con đường dài mà các quan chức tuyên truyền của Trung Quốc đã phải trải qua.
Thông qua một cuộc tìm kiếm bền bĩ, ông phát hiện ra rằng hai kho lưu trữ kỹ
thuật số – gồm Hạ tầng kiến thức quốc gia Trung Quốc(China National Knowledge
Infrastructure) liên kết với Đại học Thanh Hoa (Tsinghua), và Cơ sở dữ liệu
khoa học xã hội quốc gia (National Social Science Database) được chính phủ
Trung Quốc tài trợ – đã mất cùng một tập tài liệu gồm 63 bài viết đã đăng trên
các tạp chí nghiên cứu pháp luật bằng tiếng Trung Quốc từ năm 1956 đến 1958. Những
bài báo này từ lâu đã có sẵn ở cả hai kho lưu trữ nói trên nhưng đã biến mất một
cách khó hiểu. (Tiffert không biết chắc việc xóa bỏ chúng xảy ra khi nào). Ông
phát hiện ra một số học giả nào đó, đặc biệt là những người bị ảnh hưởng của
phương Tây và không tán thành đường lối chính trị thường xuyên thay đổi của đảng,
là những người mà bài viết của họ gần như luôn bị xóa bỏ.
Cũng trong thời gian này, một số chủ đề nào đó, chẳng hạn
như “sự vượt trội của luật pháp so với chính trị và giai cấp, nguyên tắc suy
đoán vô tội, tính kế thừa của luật pháp”, và một số thuật ngữ, chẳng hạn như cụm
từ “nhà nước pháp quyền”, các yếu tố hữu khuynh”, cũng bị coi là lý do để bài
viết bị xóa bỏ. Đáng chú ý là, có một sự đồng nhất kỳ lạ trong số các cây bút
và các chủ đề bị xóa bỏ.
Ngoại trừ một vài tổ chức nghiên cứu giáo dục nước ngoài còn
lưu giữ bộ sưu tập các bản in của các tạp chí ấy, người dân Trung Quốc và thế
giới đã không còn được đọc các bài viết như vậy. Công cuộc thao túng còn hiểm độc
hơn vì “ngay cả cung cách nghiên cứu đúng đắn cũng không thể tự bảo vệ được
mình”, như Tiffert chỉ ra. “Trái lại, các học giả càng trung thành với các nguồn
tài liệu đã bị kiểm duyệt, càng có khả năng họ vô tình quảng bá cho các thành
kiến, các chương trình của người kiểm duyệt và để cho những người này sử dụng
cái thẩm quyền độc lập có được từ danh tiếng chuyên môn của họ”.
Như ông Phương Lập Trí (Fang Lizhi), một nhà vật lý thiên
văn và trí thức bất đồng chính kiến của Trung Quốc, đã viết năm 1990 về những
cuộc tấn công do nhà nước bảo trợ vào ký ức lịch sử của Trung Quốc:
“Mục tiêu [của chính sách] này là cưỡng bức toàn xã hội phải
quên đi lịch sử của mình, và đặc biệt phải quên đi lịch sử thật của chính đảng
Cộng sản Trung Quốc… Trong nỗ lực ép buộc toàn xã hội vào một sự lãng quên liên
tục, chính sách này đòi hỏi mọi chi tiết của lịch sử không phù hợp với lợi ích
của đảng Cộng sản Trung Quốc đều không được thể hiện trong tất cả các phát
ngôn, sách vở, tài liệu và các phương tiện truyền thông khác”.
Ông Phương viết những lời này chỉ ngay sau cuộc thảm sát
trên quảng trường Thiên An Môn, khi ông bị kẹt trong đại sứ quán Hoa Kỳ và đảng
Cộng sản Trung Quốc đang tiến hành một trong những nỗ lực táo tợn nhất trong việc
xóa bỏ lịch sử – nói đúng ra là quét sạch mọi dấu vết của tội ác mà đảng vừa tiến
hành, khỏi các kho lưu trữ, sách báo và truyền thông điện tử. Vụ kiểm duyệt này
thành công đến nỗi vào năm 2004, nhà bất đồng chính kiến Trung Quốc, sau này là
người nhận giải Nobel Hòa bình, ông Lưu Hiểu Ba (Liu Xiaobo) phải than thở rằng
mặc dù “người dân Trung Quốc lục địa đã chịu đựng nhiều thảm họa không thể hình
dung nổi sau ngày Cộng sản chiếm được quyền lực…, nhưng thế hệ sau Thiên An Môn
lại không có ấn tượng sâu sắc nào về các thảm họa ấy và không có kinh nghiệm trực
tiếp về sự đàn áp của nhà nước cảnh sát”. Mười năm sau nữa, nghệ sĩ Trung Quốc
Ngãi Vị Vị (Ai Weiwei) nói thẳng hơn: “Bởi vì không có cuộc tranh luận nào về
những biến cố này cho nên người Trung Quốc vẫn chỉ hiểu biết rất ít về hậu quả
của chúng. Kiểm duyệt đã có tác động làm trung hòa (neuter) xã hội, cải biến nó
thành một thực thể bị tổn hại, phi lý tính và không mục đích”.
Bằng cách này, Trung Quốc đã trở thành nước “Cộng hòa nhân
dân Quên lãng” (People’s Republic of Amnesia) nói theo từ ngữ của Louisa Lim, cựu
phóng viên đài BBC và NPR tại Bắc Kinh, người đã dùng cụm từ đó làm nhan đề một
cuốn sách xuất bản năm 2014 của bà. Trong sách này, Louisa viết: “Một hành động
ghi nhớ đơn lẻ của công chúng cũng có thể phơi bày tính mong manh của cái cấu
trúc về lịch sử được nhà nước xây cất cẩn thận, được dựng trên cả một thế hệ và
giữ cho đứng vững nhờ một kết cấu giữa sự kiểm duyệt nghiêm ngặt, sự dối trá trắng
trợn và sự lãng quên ngoan cố”.
Sỏi đá lên tiếng
Nhưng việc ghi nhớ tập thể những giai đoạn lịch sử đau buồn
liệu có thật sự là điều tốt hơn cho các xã hội và cộng đồng hay không? Liệu việc
nhìn lại quá khứ như vậy có làm mở miệng những vết thương cũ, làm sống lại những
cuộc đấu tranh chém giết của ngày xưa hay không? (Đây là những lập luận mà nhà
văn David Rieff biện bạch trong cuốn sách gần đây của ông, In Praise of
Forgetting) (Ca tụng sự Lãng quên). Đảng Cộng sản Trung Quốc muốn thần dân mà họ
cai trị – và phần còn lại của thế giới – chấp nhận những lập luận như vậy và
tin rằng, lảng tránh sự thật tàn ác của quá khứ là con đường tốt nhất để chữa
lành vết thương.
Tuy nhiên, một trào lưu tư tưởng hoàn toàn khác đã nổi lên từ
kinh nghiệm của Đức quốc trong việc đối mặt với các tội ác của chế độ Quốc xã.
Người vạch lộ trình cho công cuộc chuộc tội của Đức là nhà triết học và phân
tâm học Karl Jaspers; từ năm 1945 ông đã trình bày hàng loạt bài giảng có ảnh
hưởng lớn ở trường Đại học Heidelberg, sau này được tập hợp thành cuốn sách
nhan đề The Question of German Guilt (Vấn đề tội lỗi của Đức). Jaspers cho rằng,
dù những gì đã xảy ra dưới thời Adolf Hitler “giống như một sự biến thái của
con người”, người Đức vẫn phải “chịu trách nhiệm tập thể”. Tất cả những “người
nào biết tới, hoặc có thể biết” – kể cả những người đã nhắm mắt bịt tai trước
các biến cố, hoặc tự cho phép mình bị đầu độc, bị cám dỗ, bị mua chuộc bằng lợi
lộc cá nhân, hoặc tuân lệnh vì sợ hãi” – đều phải chia sẻ trách nhiệm. Ông
tuyên bố, nỗi “nhiệt tình vâng lệnh”, và “sự tuân thủ không điều kiện chủ nghĩa
dân tộc mù quáng” đã cấu thành “tội lỗi đạo đức”. Con người, theo Jaspers, phải
chịu trách nhiệm “với mọi ảo tưởng dối lừa mà chúng ta quy phục”. Ông đặt niềm
tin vào việc chữa lành vết thương thông qua “sự vun trồng sự thật” và “thực hiện
cải thiện” – một tiến trình mà ông tin rằng phải hoàn toàn độc lập với mọi hoạt
động tuyên truyền hoặc thao túng của nhà nước.
Ông tuyên bố: “Không có câu hỏi nào là không thể đặt ra;
không có gì được coi là hiển nhiên một cách ngớ ngẩn, không có lời nói dối nào
về cảm xúc hoặc thực tế được coi là cần phải bảo vệ và không được đụng chạm tới”.
Theo quan niệm của Jaspers, chỉ có thông qua nhận thức lịch sử thì người Đức mới
có thể hòa giải với quá khứ của họ và tự hồi phục sức khỏe tinh thần và xã hội.
Cách tiếp cận của Jaspers chịu nhiều ảnh hưởng của lý thuyết
phân tâm học và trước tác của Sigmund Freud. Đối với Freud, tìm hiểu quá khứ của
bệnh nhân cũng giống như “khai quật một thành phố bị chôn vùi”, như ông viết
vào năm 1895. Thật vậy, Freud rất thích trích dẫn một câu ngạn ngữ Latin, saxa
loquuntur, nghĩa là “Đất đá lên tiếng”. Một ngành khảo cổ học tinh thần như vậy
rất quan trọng với Freud bởi vì ông tin rằng một quá khứ bị đè nén tất yếu sẽ
gây ra cho hiện tại và tương lai các chứng loạn thần kinh chức năng, trừ phi có
một tiếng nói của ý thức giúp lấp đầy cái mà ông gọi là “khoảng trống ký ức”.
Theo nghĩa này, lịch sử và ký ức là đồng minh của Freud, lãng quên là kẻ thù của
ông.
Ông Mao cũng say mê lịch sử, nhưng ông có một cái nhìn về lịch
sử thực dụng hơn rất nhiều: với ông, sử sách chủ yếu để phục vụ cho việc củng cố
các lý thuyết cải tạo xã hội của ông. Các sử gia độc lập tham gia vào việc khám
phá quá khứ theo phương cách tự do là những người đại diện cho một mối đe dọa
sâu sắc và dưới thời Mao, nhiều người trong số họ đã bị mất việc, bị cáo buộc
“phản cách mạng”, bị đưa đi “cải tạo tư tưởng” ở các trại cưỡng bức lao động và
trong nhiều trường hợp, bị ngược đãi đến chết.
Lịch sử nguy hiểm
Do bản thân ông Tập Cận Bình có sự ưa chuộng chủ nghĩa Mao mới
(neo-Maoist) cho nên đừng ngạc nhiên khi thấy ông chủ tịch Trung Quốc hiện nay
cũng coi các học giả độc lập như là những người truyền bá nguy hiểm những gì mà
báo chí nhà nước Trung Quốc gọi là “chủ nghĩa hư vô lịch sử” (historical
nihilism). Năm 2015, tờ nhật báo quân đội giải phóng nhân dân (People’s
Liberation Army Daily) cảnh báo rằng Trung Quốc “phải cảnh giác” chống lại những
thế lực thù địch như vậy, bởi vì giờ đây họ “đang gieo rắc từ lĩnh vực hàn lâm
sang văn hóa trực tuyến… những ý tưởng đồng bóng đang làm lệch lạc những tư tưởng
lịch sử và dẫn đi sai đường”.
Ông Tiffert vạch ra những gì sẽ xảy ra khi các sử gia Trung
Quốc vấp phải các nhà kiểm duyệt của đảng. Ông viết rằng, họ sẽ đương đầu “với
hàng loạt biện pháp trừng phạt từ thấp đến cao, bao gồm việc bị nhà cầm quyền
sách nhiễu, cơ sở xuất bản bị đóng cửa, tài khoản trực tuyến bị xóa, những vụ
điều tra mang tính nhục mạ vào công việc cá nhân, hoạt động kinh doanh và tình
trạng đóng thuế, và cuối cùng là thất nghiệp, bị trục xuất hoặc bị xử tội hình
sự”. Năm ngoái, luật pháp dân sự Trung Quốc thậm chí còn được sửa đổi để trừng
phạt “những người vi phạm tên tuổi, sở thích, danh tiếng hoặc danh dự của một
anh hùng, liệt sĩ, vân vân, gây hại cho lợi ích công cộng của xã hội”, ông
Tiffert viết và giải thích tại sao “các trí thức và nhà hoạt động trước kia từng
lên tiếng nói thì nay đều im lặng”.
Ông Tiffert còn tường thuật rằng “chính phủ Trung Quốc đang
sử dụng đòn bẩy công nghệ để lén lút xuất khẩu chế độ kiểm duyệt quốc nội của họ
ra nước ngoài… bằng cách thao túng cách thức mà các quan sát viên ở khắp nơi nhận
thức về quá khứ, hiện tại và tương lai của Trung Quốc”. Thật vậy, trong mùa hè
vừa qua, Bắc Kinh đã dọa nạt nhà xuất bản Cambridge University Press, buộc họ
phải thanh lọc kho lưu trữ kỹ thuật số của tờ The China Quarterly – một tạp chí
học thuật quan trọng bằng tiếng Anh – loại bỏ khoảng 300 bài báo đã đăng trên tạp
chí này mà đảng Cộng sản Trung Quốc phản đối vì chúng có thể được tìm thấy trên
mạng ở Trung Quốc. (Vài ngày sau, nhà xuất bản đã đảo ngược quyết định sau khi
nhiều cơ quan truyền thông đưa tin về vụ đầu hàng của họ). Thế rồi đến tháng
11, nhà xuất bản Springer Nature – nơi xuất bản các tạp chí khoa học nhưNature
và Scientific American, đã xóa khỏi các trang mạng tiếng Trung Quốc của mình một
số lượng lớn các bài báo có chứa những dẫn chiếu nhạy cảm về chính trị – tất cả
có hơn 1.000 bài báo như vậy đã bị xóa, theo tờ Financial Times.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc có vẻ tin rằng họ có thể thoát
khỏi cái lịch sử đã bị đảng của họ bóp méo mà không bị trừng phạt, ít nhất là
trong ngắn hạn – và có thể họ đã đúng. Dù sao, những tiến bộ kinh tế của Trung
Quốc và sự nổi lên của nước này như một cường quốc toàn cầu quan trọng dường
như đã không bị ngăn trở, ít nhất là tới lúc này. Đảng Cộng sản Trung Quốc đặt
cược rằng, họ có thể che giấu, hoặc ít ra cũng có thể lẩn tránh, những thiệt hại
lâu dài mà họ đã gây ra cho nhân dân Trung Quốc bằng cách đơn giản là bôi xóa lịch
sử.
Nhưng việc giấu diếm tội ác của quá khứ cứ cựa quậy bên cạnh
giáo lý của đảng Cộng sản Trung Quốc rằng, không có cái gọi là “những giá trị
phổ quát” luôn luôn đồng hành với dân chủ và nhân quyền, mà đảng coi là những
thứ phương Tây lén lút đưa vào Trung Quốc để làm suy yếu hệ thống chính trị
chuyên chế độc đảng của nước này. Theo quan điểm này, con người không có thiên
kiến chung chống lại những thứ như khủng bố, bức cung, tra tấn bằng nhục hình,
đàn áp bằng bạo lực; không có khát vọng chung căn bản về tự do, về tự do biểu đạt,
tự do lập hội và tự do tín ngưỡng; cũng không có mong muốn được sống trong một
thế giới mà những điều sai trái cuối cùng sẽ có thể được đền bù.
Tuy nhiên, nếu điều đó là đúng thì đảng không có lý do gì phải
sợ một cuộc giải trình thành thực về quá khứ. Dù sao, nếu những giá trị phổ
quát không tồn tại thì những cuộc tấn công của Mao vào những người phê phán và
các kẻ thù của ông ta sẽ không phải là một tội lỗi nghiêm trọng. Và thế thì tại
sao đảng Cộng sản Trung Quốc phải trăm phương ngàn kế tìm cách che giấu sự thật
về những hành động như vậy – một mâu thuẫn cho thấy điều gì đó giống như một sự
cắn rứt lương tâm hoặc ít ra là một sự bối rối nếu sự thật được phơi bày. Nếu
quả đây là trường hợp của Trung Quốc thì có thể một chế độ nào đó trong tương
lai của nước này sẽ phải tìm cách công nhận, thậm chí hòa giải với quá khứ
trong chiều kích đầy đủ của những gì mà đảng Cộng sản đã làm cho Trung Quốc – chuyện
xấu cũng như chuyện tốt. Tuy nhiên, điều đó dường như không thể xảy ra trong
tương lai gần.
Sau phong trào Bức tường Dân chủ ở Trung Quốc năm 1978-1979,
trong đó hàng chục ngàn người dân Bắc Kinh đã tụ tập trước một bức tường gạch
không có gì nổi bật để treo lên đó các bích chương chính trị, đọc các bài diễn
văn và tổ chức các cuộc tranh luận chính trị, các nhà văn Trung Quốc đã bắt đầu
chú ý tới nhiều thập niên đàn áp chính trị ở đất nước họ. Tác phẩm của các nhà
văn này được nói tới như là “phóng sự điều tra”, hoặc “văn học vết sẹo”. Nhưng
những cuộc tự vấn như vậy đã kết thúc sau năm 1989, và từ khi ông Tập Cận Bình
lên cầm quyền, năm 2012, một bức màn kiểm duyệt thậm chí còn nặng nề hơn đã vùi
Trung Quốc ngày càng sâu vào tình trạng mù lịch sử. Một nghiên cứu gần đây của
dự án Truyền thông Trung Quốc thuộc Đại học Hong Kong, đã tìm kiếm trong 140 xuất
bản phẩm trong nội địa Trung Quốc những bài báo về cuộc Cách mạng Văn hóa – một
giai đoạn kéo dài 10 năm trong đó hàng triệu người trung lưu Trung Quốc đã bị
hành hạ, bị thảm sát vì “có lý lịch giai cấp xấu”. Các nhà nghiên cứu chỉ tìm
thấy 3 bài báo dám đào sâu vào chi tiết của thập niên ấy. Đi tìm những xuất bản
phẩm trình bày chủ đề này một cách toàn diện hơn “sẽ có nghĩa là tìm tới rủi ro
một cách ngu ngốc”, các tác giả báo cáo của dự án viết.
Và cho dù một công trình nghiên cứu như vậy một ngày nào đó
lại được chào đón ở Trung Quốc thì tác động của nó có lẽ sẽ không gây ấn tượng
nhiều, bởi vì quá nhiều thứ đã bị lấp liếm và bị kìm nén. Nói như lời của nhà bất
đồng chính kiến Lưu Hiểu Ba: “Những đôi mắt nhìn vào bóng tối quá lâu sẽ khó mà
thích nghi được với ánh sáng rực rỡ ban ngày bỗng dưng tràn vào qua cửa sổ”.
*
Orville Schell là giám đốc Trung tâm về quan hệ Hoa Kỳ-Trung
Quốc tại Hội châu Á (Asia Society).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét