Trong bài trước, tôi có nhắc đến tham vọng của đương kim thủ
tướng Nguyễn Xuân Phúc về việc xây dựng một chính phủ liêm chính - kiến tạo, đến
những mong muốn của ông biến điều đó thành hiện thực. Nhưng, như chúng ta biết,
giữa khát vọng và hiện thực luôn có khoảng cách, không phải bao giờ chúng cũng
đi với nhau.
Điều dễ thấy nhất là ông Phúc đã và đang phải chịu thừa hưởng
di sản tồi tệ từ người tiền nhiệm, ông Nguyễn Tấn Dũng. Đó là những khoản nợ
công đầm đìa khổng lồ, những vụ thất thoát khủng khiếp do tệ nạn tham nhũng vơ
vét, những vụ ném cả núi tiền qua cửa sổ do làm ăn chả giống ai, đặc biệt là do
ngu dốt và tham lam, những suy sụp khó bề cứu vãn của nền kinh tế nhà nước sau
khi những tập đoàn, tổng công ty từng được coi là quả đấm thép mà chính phủ đặt
vào đó rất nhiều kỳ vọng như Vinashin, PVN, EVN… sụp đổ tan nát. Và điều tai hại
nhất là người ta (chính phủ tiền nhiệm) đã giải bài toán kinh tế rối rắm, đã bù
đắp hao hụt tài chính quốc gia (tiền bạc bị mất đi bởi những lý do trên) bằng
thuế. Tăng thuế, đổ hết lên đầu người lao động, lên cổ dân chúng. Điều đó hoàn
toàn ngược với chủ trương, đường lối của giai cấp tự nhận quyền lãnh đạo, nhưng
cũng dễ hiểu bởi xưa nay người cộng sản thường làm ngược lại những điều họ nói.
Thời thuộc Pháp, để tập hợp được dân chúng đứng dưới ngọn cờ
chính trị của mình, một trong những biện pháp đắc dụng mà đảng vô sản thực hiện
là khơi dậy trong dân chúng mối căm hờn chính sách thuế khóa của nhà cai trị. Cụm
từ thường được họ nhắc đi nhắc lại trong những cuộc tuyên truyền, diễn thuyết,
giác ngộ nhân dân là “sưu cao thuế nặng”. Những cuộc vận động nông dân đứng lên
phản kháng luôn xoáy vào vấn đề thuế, bên cạnh vấn đề “người cày có ruộng” (được
coi là quan trọng nhất với nông dân). Chính những trang lịch sử của nhà nước có
biên ghi như vậy chứ không phải tôi suy diễn. Thơ văn cách mạng đã xoáy sâu vào
tình trạng thuế khóa, xem đó như nguyên nhân chính gây ra bao đau khổ cho dân
chúng xứ thuộc địa: “ Đêm nằm luống những sầu bi/Sưu cao thuế nặng lấy chi
thanh nhàn”, “Rày sưu mai thuế trưng cầu/Cầm con cầm vợ bán trâu bán bò”… Như một
thủ pháp tuyên truyền có định hướng, người cộng sản tập hợp khai thác sâu kỹ những
tác phẩm văn học hiện thực phê phán như Tắt đèn, Bước đường cùng… để khơi sâu
lòng căm thù của người nông dân (mà họ gọi là đội quân chủ lực của cách mạng) đối
với thuế khóa, từ đó kêu gọi nhân dân đứng lên lật đổ bộ máy cai trị đế quốc-phong
kiến, nhưng đồng thời họ cũng cố tình ém đi, phủ nhận nhiều tác phẩm văn học
nghệ thuật hiện thực và lãng mạn rất có giá trị phản ánh xã hội lúc bấy giờ bởi
chúng không phục vụ cho mục đích, đường lối của họ. Các tác giả nổi tiếng Vũ Trọng
Phụng, Nhất Linh, Khái Hưng… bị “lãng quên” một thời gian dài hàng mấy chục năm
chủ yếu là vì vậy. Phải thừa nhận, sự lựa chọn, phân loại ấy của người cộng sản
rất có lợi cho họ, hiệu quả cao, giúp đắc lực việc tổng hợp sức mạnh quần chúng
đứng lên làm cách mạng. Ai cũng hiểu, người dân bấy giờ chả có mong mỏi gì hơn
là đồng thời với việc được làm công dân của một nước độc lập thì còn là được
thoát khỏi gông cùm thuế khóa đã bấy lâu đè nặng lên cuộc sống.
Điều cần xác định, nói ra cho khách quan, là bất kỳ quốc gia
nào, chính phủ nào, dù từ thời thượng cổ, đều có chính sách thuế khóa. Đã lập
nên bộ máy nhà nước cai quản quốc gia, điều khiển xã hội thì phải thu thuế để
nuôi bộ máy ấy. Muốn quốc gia phát triển thì phải huy động được sự đóng góp của
tất cả cá nhân, đơn vị bằng thuế. Không phải không có lý khi người cộng sản nói
rằng đóng thuế, nộp thuế cho nhà nước “là nghĩa vụ, vinh dự và trách nhiệm” của
mọi công dân. Như vậy, thuế là điều hẳn nhiên, giống không khí mà con người vẫn
thở. Nhưng nếu thuế bị lợi dụng, bị biến thành thứ gông cùm tai vạ, thành công
cụ bóc lột, thành nguyên nhân gây tang thương đau khổ cho con người, thì nó
cũng chả khác gì không khí đã bị ô nhiễm, không thể hít thở được. Lúc đó, bản
thân thuế cũng đã âm ỉ chứa đựng sự phản kháng của người nộp thuế, đến giới hạn
nào đó thì sẽ bùng lên. Hiện tượng giới tài xế phản đối tình trạng thu phí bất
hợp lý ở trạm thu phí Cai Lậy (tỉnh Tiền Giang) cũng như nhiều trạm thu phí
trên khắp cả nước thời gian qua chính là biểu hiện phá vỡ giới hạn chịu đựng.
Xin nhớ rằng, đó mới chỉ ở tầm nhỏ, việc nhỏ, nếu nhà nước, chính phủ không nhận
ra, có sự điều chỉnh kịp thời, hợp lý thì rất nhiều khả năng sẽ có những phá giới
hạn ở tầm lớn hơn, nghiêm trọng hơn, chả ai lường được. Cái sảy nảy cái ung.
Người xưa từng dạy rằng ngọn khói mỏng có thể làm cháy nhà, tổ mối con có thể
gây đê vỡ.
* * *
Hôm 1.9 vừa rồi, lúc 10 giờ 30 tôi có mặt tại trạm thu phí
Cai Lậy (Tiền Giang). Buồn chân thì đi thôi chứ chả phải mê say lễ lạt gì, cũng
đi ngang đây chứ không hề có ý định xuống hiện trường để tận mục sở thị. Các lối
vào trạm đã thông thoáng, barie được dỡ bỏ, xe cộ qua lại thoải mái không mất
tiền, dù tiền lẻ, tiền chứa trong lợn đất hoặc chai nhựa. Thực tế mà tôi chứng
kiến tận mắt nói lên rằng nhà chức việc ít nhiều đã biết lắng nghe, bước đầu đã
có sự điều chỉnh, giải quyết hợp lý thuận tình, sau những căng thẳng cãi vã ban
đầu. Nếu cứ theo hướng giải quyết tôn trọng chân lý như thế này, sẽ còn nhiều
điều tốt đẹp, nhưng nếu chỉ tạm coi như giải pháp tình thế, lùi để tiến, tạm hạ
nhiệt xoa dịu rồi sẽ tính sau… thì tôi đồ rằng tiền lẻ lại có dịp phát huy giá
trị nhỏ mọn của nó.
Thị trấn Cai Lậy cũng như nhiều huyện lỵ ở miền Tây Nam Bộ
nhỏ nhắn nhưng khá tấp nập thuyền bè, xe cộ mua bán thóc gạo, trái cây. Quan ngại
nhất, là nó nằm ngay trên trục chính, quốc lộ 1 xuyên tâm đất phương nam màu mỡ.
Người ta đã nâng cấp nó thành thị xã khiến nguy cơ về tai nạn giao thông do xe
cơ giới băng qua khu dân cư càng cao. Lẩn thẩn tự hỏi, mà sao lại cứ phải phong
cấp cho những thị tứ của huyện của tỉnh làm chi nhỉ. Xưa nay huyện có thị trấn,
tỉnh có thị xã, đô thị lớn cấp quốc gia thì là thành phố, gọi như thế có chết
ai, giờ cứ phải tăng thành thị xã, thành phố cho nó oai. Với tôi, nhưng cái tên
như thị xã Kiến An (tỉnh Kiến An cũ quê tôi, nay thuộc Hải Phòng), thị xã Bắc
Ninh, thị xã Lạng Sơn, thị xã Tây Ninh… đem lại nhiều gợi cảm, yêu thương, gần
gũi hơn khi gọi nó là thành phố. Thị trấn Cai Lậy cũng vậy, chả hay ho gì cái
tên thị xã Cai Lậy khi nó chỉ có vài đường phố, còn nhà cửa lộn xộn, lè tè thò
ra thụt vào, nếu không nói là còn nhếch nhác. Hình như chế độ này thích làm
chuyện sắc phong, hết phong cho người, rồi cho đất, cho cơ quan đơn vị. Hàng
trăm trường đại học đã ra đời, mà thực chất nó chỉ ở tầm cao đẳng, hoặc thậm
chí cỡ trường trung cấp. Nhưng cứ được gọi đại học là khoái, mà anh ký phong
cũng có màu.
Ngay trên đất nóng trạm Cai Lậy quốc lộ 1, dưới cái nắng gay
gắt, tôi chả khó khăn gì trong việc đưa ra lời khẳng định trạm thu phí đặt ở
đây là cực kỳ sai lầm, sai trầm trọng, vô lý đến mức không thể nào vô lý hơn.
Chỗ đúng của nó phải nằm trên con đường tránh mà người ta vừa xây dựng. Tại sao
lại bắt những chiếc xe từ phía tây theo quốc lộ 1 đi vào thị xã Cai Lậy phải nộp
phí bởi những xe ấy hoàn toàn không sử dụng một mét đường tránh nào. Mà với xe
từ Cai Lậy về phía tây cũng thế. Đè cổ nó bắt nôn tiền ra là sự thậm vô lý. Nó chỉ
dùng biện pháp hòa bình, thò tiền lẻ ra cho đếm là còn may đấy. Đám lợi ích đã
cố tình trộn lẫn những xe “nói không với đường tránh” với đám xe từ phía tây trạm
bò lên mạn Mỹ Tho, Long An, Sài Gòn, hay ra miền Trung, miền bắc (và ngược lại).
Đám xe này sử dụng đường tránh, đương nhiên chúng phải nộp phí. Chả ai làm đường
cho các vị xài chùa. Vấn đề là người ta đã cố ý đặt trạm thu phí vào chỗ có thể
tận thu, không để lọt bất cứ xe nào, dù mày có đi vào đường của tao hay không.
Chính vì vậy, bộ phận chức năng, hoặc chính phủ, phải làm cho rõ ai, cơ quan
nào, cấp nào đã cho phép nhà đầu tư BOT được đặt trạm bóc lột ở chỗ này. Bố bảo
nhà đầu tư cũng không dám tự ý nếu nó không được phép, được bật đèn xanh. Các
doanh nghiệp, người dân, nhất là các tài xế, chủ xe, chủ hàng có thể khởi kiện,
đòi bồi hoàn, trả lại mình khoản tiền phí (một kiểu thuế, tiền mãi lộ) mà mình
đã từng phải chịu nộp một cách thậm vô lý bấy lâu nay. Nếu không có tấm gương
xài tiền lẻ của các bọ tài xế xứ Nghệ để trị trạm thu phí Bến Thủy, rồi sau đó
được phát huy đầy tinh thần cách mạng ở nơi từng diễn ra Nam Kỳ khởi nghĩa thì
người dân chả biết còn khổ bởi đám sưu thuế phí này đến bao giờ, đám “lợi ích”
còn ăn bẫm đến bao giờ. May là nó đã bị chặn lại.
Cứ theo cách tố cáo của bộ máy tuyên truyền nhà nước thì dưới
chế độ thực dân-phong kiến có hàng trăm thứ thuế, thậm chí đi… ỉa cũng phải nộp
thuế: “thuế xí kia mới thiệt lạ lùng” (chả biết có phải họ nói vống lên cho
tăng sức nặng căm thù không). Tuy nhiên, nếu so với bây giờ, số lượng sắc thuế
của bọn đế quốc sài lang và tay sai chỉ ví như con tem dán lên mình con voi.
Thuế xưa phải chắp tay gọi thuế nay bằng cụ. Giờ đây, thuế được áp vào mọi thứ
sản phẩm, mọi hoạt động, mọi ngõ ngách, mọi con người. Thuế xã hội chủ nghĩa
trùng trùng điệp điệp. Thuế “vinh dự, nghĩa vụ, trách nhiệm” dày hơn cả mái
ngói vảy chốn đình chùa, lớp này đè lớp khác. Có vị đại biểu quốc hội từng than
thở rằng một quả trứng gà khi đến miệng người tiêu dùng phải gánh đến 18 thứ
thuế phí thì quả thật thuế thời nay đã đạt đến độ khủng khiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét