Nón cối tôi chẳng cảm thấy vinh dự, sung sướng hay tự hào chút nào
khi nói về mình. Có điều vừa qua, một biến cố xảy ra khiến tôi buộc lòng
phải lên tiếng. Đó là chuyện Cả trường đội mũ cối trong ngày khai giảng. Người Bắc gọi tôi là mũ cối, nguời Nam gọi nón cối, khác nhau chút đỉnh nhưng gọi thế nào thì tôi vẫn là tôi. Không hiểu tại sao lại xảy ra “sự cố” này? Do đó tôi lên tiếng tự
nhận định, thanh minh về mình để những vị giáo sư, tiến sĩ, học giả, học
thiệt, hàn lâm viện sĩ của nước CHXHCNVN, những vị kiến thức mênh mông
như biển cả, chữ nghĩa bao trùm thiên hạ như cát sa mạc Sahara, vui lòng
giải thích giùm về nguyên nhân “sự cố” nói trên.
Tôi không biết mình sinh ra ngày tháng nào, bao nhiêu tuổi, cha mẹ
mình là ai, có bao nhiêu anh em… bởi tôi không có khai sinh. Nhưng mà
tôi biết chắc một điều, tôi đã hiện diện trên mảnh đất hình chữ S này
lâu lắm rồi, dường như là từ hồi đầu thế kỷ trước.
Tôi đã đi khắp các miền, các nẻo đường đất nước để tìm kiếm nguồn gốc
mình nhưng cũng không có chút manh mối nào. Câu hỏi, tôi hiện diện trên
cõi đời này trước hay sau khi có ông Hồ Chí Minh, không ai trả lời
được. Tôi có mặt khắp nơi, từ vùng rừng núi, khu lòng chảo Điện Biên
lạnh lẽo, ẩm ướt qua con đường mòn dọc theo dãy Trường Sơn chim kêu,
vượn hú, trải đầy Xương Trắng (*), đến vùng Đồng Tháp Mười “muỗi kêu như
sáo thổi, đỉa nổi lềnh bềnh như bánh canh”.
Một thời gian dài ở miền Bắc của đất nước hình chữ S, tôi đã trở
thành môt biểu tượng, một vật bất ly thân của hầu hết người dân, đàn
ông, phụ nữ, thanh niên, thiếu nữ… Từ lãnh đạo đất nước cao nhất như ông
Hồ Chí Minh hay Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, từ chủ tịch nước
đến bí thư xã, huyện… ai ai cũng đội tôi lên đầu. Trời nắng gió hay mưa
bão, ra ngoài đồng, vào nhà ăn, hội họp, liên hoan, họ luôn có tôi bên
cạnh. Tôi có mặt mọi nơi, mọi chỗ, mọi lúc như một sự hòa đồng không
giai cấp giữa tất cả mọi người, không có cách biệt giữa lãnh đạo với
người dân, giữa ông đại tướng đến anh binh nhì, hạ sĩ.
Sau ngày 30.04.1975, một số người dân miền Nam cũng a dua, đua đòi
à-la-mode Nón Cối. Không hiểu tại sao, nhưng dường như sự hiện diện của
tôi trên đầu tạo thêm cho họ một ít cảm giác bình yên hoặc một sự kết
nối thân thiện lúc đầu gặp gỡ trong một xã hội ngột ngạt, khó thở, chỗ
nào cũng có những cặp mắt nghi kị, dòm ngó, dò xét đầy đe dọa. Thật ra
cảm giác bình yên đó chỉ là ảo giác bởi những người cùng đội nón cối,
từng là đồng chí thân thiết với nhau, ăn cùng mâm, trốn cùng hầm vẫn tìm
cách sát hại, thanh toán lẫn nhau khi tranh giành địa vị, chức tước,
quyền lợi…
Tiếp theo sau đó là, đến sư sải, thầy chùa, cha cố, linh mục… cũng
bắt chước, chẳng ra thể thống gì. Mặc áo cà sa vàng, áo nâu sòng, xám
của sư sải hoặc đen tuyền của linh mục mà chụp tôi lên đầu thì thật vô
duyên, dị hợm và cũng vô cùng phản cảm. Tại sao những người này lại làm
như vậy, họ có biết để tôi chễm chệ trên đầu họ là bôi bác tôn giáo hay
không? Họ quá biết đi chứ nhưng vì họ là sư sải, thầy chùa, đại đức,
thượng tọa, linh mục, cha cố quốc doanh nên họ phải làm theo ý của đảng
cầm quyền. Đơn giản vậy thôi, tất cả chỉ vì mục đích chính trị.
Ngay cả Hồ Ngọc Thắng, một người Đức gốc Việt, kẻ nổi tiếng thứ hai
trong vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, khi về Việt Nam dâng hương tưởng niệm
liệt sĩ QĐND ở Trường Sa từ năm 2015, cũng đem tôi chụp lên đầu làm
biểu tượng lấy điểm trong lúc chụp hình. Qua bên Đức, chắc chắn Thắng
không bao giờ dám cho tôi ngồi lên đầu khi ra ngoài đường hay đến những
nơi công cộng.
Tôi biết mình không đẹp. Mỗi khi soi gương, nhìn màu ô-liu hay màu gì
khác đi nữa, tôi thấy màu nào cũng không thể phủ lấp vóc dáng quê kệch
của mình so với dáng vẻ thanh nhã, yểu điệu với màu vàng nhạt, thân thể
mảnh mai của Nón Lá, một người chị họ con chú con bác của tôi, nên tôi
cảm thấy buồn và tủi thân. Chị Nón Lá đã mảnh mai, nhẹ nhàng lại có thể
trang điểm thêm bằng những bài thơ, viết đan vào giữa các lá hoặc bọc
một lớp nhựa mỏng trang trí bằng những bông hoa đủ màu sắc tươi đẹp.
Tôi nghe nói chị Nón Lá đã là biểu tượng một thời của phụ nữ miền Nam
trước tháng Tư năm 1975. Điều này chắc đúng, bởi đội chị Nón Lá sẽ làm
nổi bật sự duyên dáng, thùy mị, kín đáo của người phụ nữ miền Nam, điều
mà tôi không có khả năng.
Hơn nữa chị che nắng tốt hơn tôi rất nhiều khi người đội phải ra
đường hay làm việc ngoài đồng. Chính điều này khiến Nón Lá không những
là vật trang điểm cho các thiếu nữ mà còn giúp cho những người dân lao
động, buôn thúng, bán bưng giảm bớt được sự cực nhọc gây ra bởi ánh sáng
mặt trời chói chang trong những ngày hè nóng, nắng cháy da.
Quần áo đơn sơ với bộ bà ba cùng đôi gánh chè, cháo trên vai, cộng
với chiếc nón lá là những hình ảnh quen thuộc, thân thương với người dân
miền Nam. Tôi hầu như không được vinh dự che nắng cho phụ nữ buôn bán
hàng rong ở miền Nam, bởi sự thô kệch và ít hữu dụng của mình. Chẳng
thấy bà hay cô nào quàng đôi gánh quà vặt lên vai mà đội nón cối lên
đầu.
Tôi cũng không được cái to lớn, tròn trỉnh, cứng cáp, mạnh mẽ của
người anh em họ xa trong gia tộc Nón của tôi là Nón Sắt. Nhiều lúc tôi
cảm thấy ghen tị với Nón Sắt. Nón Sắt to lớn, hùng dũng, chắc chắn, tuy
hơi nặng nề. Mới đội chưa quen thì cũng khó chịu vì sức nặng, nhưng có
nhiều công dụng, có thể làm xô múc nước rửa mặt, đánh răng, làm gối nằm
nghỉ trong lúc đi hành quân, che chở đầu trong lúc giao tranh, không bị
sát hại bởi miểng súng cối, hỏa tiễn nổ gần hay đầu đạn AK-47, M-16… xa
trên 300m khi trúng vào nón.
Sự ghen tị của tôi chỉ chấm dứt khi mảnh đất hình chữ S đã thu về một
mối, dù là Một Mối Hận Thù – Một Mối Đau Thương. Nón Sắt biến mất hẳn
trên mảnh đất này vì không còn ai (dám) đội, khi kẻ chiến thắng nhân
rộng tôi ra khắp nước. Họa hoằn lắm tôi mới gặp lại người anh em họ xa
nằm lạc lõng đâu đó trong góc nhà của một người thương phế binh hay một
người lính già VNCH hoặc một kho phế liệu nghèo nàn của một người nào
đó. Có một bản nhạc ở miền Nam trước khi tàn cuộc chiến có nhắc tới chiếc nón sắt của một người lính Cộng Hòa bỏ lại bên bờ lau sậy.
Tôi có mặt khắp nơi như vậy nhưng nhiều khi cũng tự hỏi: Không biết
người dân miền Nam có thích tôi hay không? Tự hỏi rồi tự trả lời: Dường
như không! Bởi tôi cũng hay bắt gặp những ánh mắt khó chịu, những cái
nhìn thiếu thiện cảm lẫn dò xét, nghi ngờ khi người miền Nam thấy tôi.
Bốn mươi hai năm hơn đã trôi qua, chị Nón Lá sống èo oặt một thời
gian dài, nay có vẻ bắt đầu hồi sinh, từ lúc nào tôi không biết. Rải rác
đây đó, phụ nữ miền Nam bắt đầu đội lại chị Nón Lá, trong khi sự hiện
diện của tôi thì ngược lại, càng ngày càng ít đi. Phải chăng vì đó là lý
do mà những người đã dùng tôi như một biểu tượng của sự chiến thắng
trong trận chiến Quốc-Cộng 1954-1975, thấy cần phải khôi phục lại chỗ
đứng cho tôi?
Hiện tại, tôi chỉ còn có mặt thường xuyên ở hai nơi là cơ quan quân
đội và công an. Ngoài đường phố cũng như ở công sở, trường học, bệnh
viện, bến xe, phi trường, nhà hàng, quán xá… họa hoằn lắm mới có người
trông thấy tôi. Cũng đúng thôi! Ăn mặc xuề xòa, quần tây rộng thùng
thình, áo sơ mi bỏ ngoài quần lè phè, đặt tôi lên đầu không dị hợm, chứ
chơi bộ veston đen, cà vạt hoặc áo đầm mà cho tôi chễm chệ trên đầu thì
chưa thấy ai đủ can đảm làm thử.
Do đó, tôi thật lòng mong muốn những người đang muốn đoàn thể hóa dân
chúng nhằm một mục đích nào đó, hãy vui lòng bỏ tôi qua một bên, đừng
sử dụng tôi nữa. Hãy chọn cho đất nước, dân tộc VN môt biểu tượng khác
trang nhã, thanh lịch hơn tôi bởi vì trong tất cả các loại nón được ưa thích trên thế giới, tôi không tìm thấy chỗ đứng của mình.
____
(*) Xương Trắng Trường Sơn: là tên quyển sách thứ
hai trong tập Hồi ký của nhà văn Xuân Vũ gồm 5 cuốn Đường Đi Không Đến,
Xương Trắng Trường Sơn, Mạng Người Lá Rụng, Đến Mà Không Đến, Đồng Bằng
Gai Góc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét